Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

Khổng Tử là ai?




Khổng Tử - Ông là ai?

Khổng Tử (tên chữ là Trung Ni) sinh ở Ấp Trâu, nước Lỗ vào năm 551 trước Công Nguyên, thời Xuân Thu và mất năm 479 cũng tại nước Lỗ, thọ 73 tuổi. Khổng Tử mồ côi cha từ năm 2 tuổi.
Hồi nhỏ ông rất chăm học và thích chơi trò tế lễ (!), ông là người đầu tiên ở Trung Hoa đã mở trường dạy tư và năm 30 tuổi đã có hàng trăm học trò, tiếng tăm của ông lừng lẫy khắp các nước chư hầu thời đó.
Chu du thiên hạ
Năm ông 51 tuổi, vua nước Lỗ là Định Công đã vời ông ra làm quan và phong cho chức Trung-Đô-Tể tức chức quan nắm quyền cai trị "Thủ đô" nước Lỗ, một năm sau ông được thăng lên chức Tư Không (Công chánh) rồi kiêm luôn chức Đại-Tư-Khấu (như bộ trưởng tư pháp). Trong thời gian này, Khổng Tử có phò vua Lỗ đi "Hội nghị" để bàn về giao hảo giữa vua Lỗ và vua Tề ở Hiệp Cốc và vua Tề đã thất bại trong âm mưu định hại vua Lỗ (đánh úp) nhờ có sự tài ba sáng suất của Khổng Tử.
Khổng Tử sau đó lên đến chức Tướng Quốc (tức Thủ Tướng) nước Lỗ. Ông sửa sang chính trị và làm cho nước Lỗ trở nên cường thịnh trong 72 nước chư hầu thời đó. Để hại nước Lỗ vua Tề là Tề Cảnh Công đã đem "tặng" vua Lỗ một đoàn nữ nhạc với 80 vũ nữ đẹp như tiên nữ chốn Bông Lai. Từ đó vua Lỗ mải mê với các người đẹp mà bỏ bê chính sự. Khổng tử can ngăn vua không được ông đã bỏ Lỗ cùng học trò đi chu du thiên hạ, lúc đó ông đã 56 tuổi, 13 năm đi thuyết giáo qua hàng chục nước chư hầu, nhưng không được vua nào trọng dụng, có lúc lâm vào cảnh đói rét nên cuồi cùng Khổng Tử trở lại về nước Lỗ, lúc đó ông đã 68 tuổi(!).
Trong truyện Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu nước ta có đoạn viết:
"Thương là thương Đức Thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ, lúc Trần lúc Khuông..."
Chính là nói về đoạn đời long đong ấy của Khổng Tử. Thánh nhân ở đây chính là Khổng Tử. Ngay từ thời đó cũng như các thế hệ sau này đều phong Khổng Tử là bậc thánh nhân vì đức độ và tài năng học thức uyên bác của ông.
Năm năm cuối đời, Khổng Tử dành để san định (biên soạn) trước thuật 6 bộ sách nổi tiếng sau này đó là: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu: Ông nói ta chỉ thuật lại mà thôi, chớ ta có tác tạo gì được. Ta tin tưởng và hâm mộ đạo đức của người xưa ... (theo sách Truyện Đức Khổng Tử của Đoàn Trung Còn. NXB VHTT 1996).
Tư tưởng
Không biết bao nhiêu bút mực đã đổ ra 25 thế kỷ qua để nghiên cứu về Khổng giáo, về tư tưởng của Khổng Tử. Cũng có học giả như học giả Pháp Etiemble, trong cuốn Confucius 1966 thì cho rằng nghiên cứu Khổng Tử chỉ nên dựa vào sách Luận - ngữ là bộ sách ghi lại những lời đối đáp của Khổng Tử với học trò, các sách khác không đáng tin cậy. Nhưng gì thì gì, loài người tiến bộ vẫn phải ghi nhận Khổng Tử là nhà giáo dục lớn nhất của mọi thời đại ngay thời bấy giờ ông có tới 3000 học trò và rất nhiều người trong số đó đã thành đạt. Về chính trị Khổng Tử chủ trương Đức trị.
Ông là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách của người cai trị (tức người quân tử), ông chủ trương vua sáng tôi hiền, vua ra vua, tôi ra tôi. Nhưng Khổng Từ là người không thích cách mạng, ông không tán thành bạo lực cách mạng để thay đổi thời thế, cho dù thời thế của bọn hôn quân bạo chúa! Đó là tính chất bảo thủ trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử."Khổng Tử bỏ qua vấn đề pháp luật và thiết chế, từ chối mọi cải cách" (Nguyễn Khắc Viện). Chính vì vậy mà từ đời Hán sau này trở đi Khổng Tử được các triều vua tôn lên hàng Đại Thánh, là ông Thánh của các ông Thánh là "vạn thế sư biểu" (ông thầy tiêu biểu của muôn đời) để lợi dụng học thuyết của ông, duy trì chế độ phong kiến bảo thủ trì trệ ở Trung Hoa cho mãi đến đầu thế kỷ 20!
Có thể nói trong lịch sử nhân loại, chưa có triết gia nào mà triết thuyết của người ấy lại được thiên hạ lợi dụng tâng bốc đến mây xanh hoặc phê phán đến không tiếc lời như học thuyết của Khổng Tử(!) Những kẻ muốn duy trì trật tự hiện tại thì tôn vinh Khổng Tử những kẻ muốn thay đổi trật tự hiện tại thì phê phán Khổng Tử.
Đến nay có rất nhiều trường đại học ở Phương Tây mở khoa Khổng học để tiếp tục nghiên cứu về Khổng Tử. Đạo đức cao cả và lối sống chừng mực của Khổng Tử vẫn cần cho thế giới Phương Tây đang sống xa hoa và hủy hoại môi trường!
Hiện nay mộ Khổng Tử vẫn còn ở huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông Trung Quốc. Khổng Tử miếu hiện có khuôn viên đến 133.000m2, chủ thể của Khổng Tử miếu là Đại Thánh điện, nơi các vị Hoàng đế Trung Hoa đến thờ cúng Khổng Tử. Khổng tử miếu được xây từ đời nhà Tống đến thời Ung Chính thì được trùng tu lớn.
Ông còn một người cháu 77 đời là Khổng Đức thành sanh năm 1919 ở Bắc Kinh(?) Khổng Đức Thành đã từng qua Mĩ du học và năm 1946, đã lấy vợ. Có lẽ đến nay ông đã có con cháu để nối dòng thánh tộc!
                                                                              ---   BBC Vietnamese  ---  






Bách Gia Chư Tử
Thảo Đường Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh
biên soạn
-
Phần Một 
*
Tổng luận về Bách Gia Chư Tử


1. - Nguồn gốc Bách Gia Chư Tử
Ở nước Trung Hoa, từ thời Chu, Tần, (trước Chúa giáng sinh) có rất nhiều học giả ra đời, mỗi nhà đều có viết sách, trình bày học thuyết của mình, với mục đích sửa đổi chế độ, mong đem lại hạnh phúc ấm no cho con người.
Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Người xưa cũng gọi Chư Tử là các tác phẩm của những nhà học giả ấy viết ra. Danh từ này được thấy dùng đầu tiên trong pho sách Thất lược.
Dưới thời Tây Hán (206 trước T.L.) vua Thành Đế sai Lưu Hướng làm chức Hiệu Trung bí thơ, Lưu Hướng lo hiệu đính các loại sách Kinh, Truyện, Chư Tử, Thi Phú ; quan Bộ binh Hiệu úy Nhiệm Hoằng hiệu đính các sách Binh thơ ; quan Thái Sử Lịnh Doãn Hàm hiệu đính các sách Số thuật, quan Ngự y Lý Trụ Quốc hiệu đính các sách Y học.
Sau khi Lưu Hướng mất, vua Ai đế sai con Lưu Hướng là Lưu Hàm, lo hoàn thành công việc của cha còn bỏ dở.
Lưu Hàm liền tổng kết hết các loại sách làm pho Thất lược, gồm có Tập lược, Lục Nghệ lược, Chư Tử lược, Thi phí lược, Binh thơ lược, Số thuật lược, Phương Kỷ lược (sách về Y học).
Pho Tập lược là pho Tổng mục về tất cả các pho sách khác, còn lại 6 pho lược sau, thì chia cổ thơ ra làm 6 loại như đã kể.
Như thế thì Thất lược là một pho Cổ thơ của Trung quốc, gom góp tất cả các loại sách lại, phân chia ra thành từng loại, mà Chư Tử là một loại trong pho sách ấy.
Nguyên bản của pho Thất lược đã thất lạc, đến đời Đông Hán (25-214 T.L.) Ban Cố mới cố gắng gom góp lại những điểm trọng yếu để viết thành pho Hán thư Nghệ văn chí, nhờ đó mà mới có thể biết qua đại khái pho Thất lược như thế nào.
Kể từ đó trở đi, dưới thời nhà Tống (420-477 T.L.) có pho Thất chí của Vương Kiệm, bên trong có phần Chư Tử chí, rồi dưới thời nhà Lương (502-555 T.L.) có pho Thất Lục của Nguyễn Hiến Tự, bên trong có phần Tử Binh Lục, tức hợp Chư Tử và Binh thơ lại làm một.
Pho Kinh tịch chí dưới thời nhà Tuỳ (589-614 T.L.) và pho Tứ Khố toàn thư dưới thời nhà Thanh (1667-1911 T.L.) cũng đều có riêng một phần về Chư Tử.
Truy nguyên các sách kể trên đều bắt nguồn từ pho Thất lược, cho nên Chư Tử là tên gọi một loại sách Cổ thơ bắt đầu từ pho Thất lược.
Ông Nhiệm Hoằng, với chức Bộ Binh Hiệu Úy, sở trường về quân sự, cho nên hiệäu đính Binh thơ, Doãn Hàm với chức Thái Sử Lịnh, thì hiệu đính sách Số thuật, Lý Trụ Quốc là Ngự Y thì hiệu đính sách Y học.
Trong 3 loại sách này, đều có người chuyên môn hiệu đính, như thế là hợp lý, vì tính chất của mọi loại sách đều khác biệt nhau, và cũng vì thế mà phải phân ra từng loại riêng biệt.
Về các loại sách Lục Nghệ, Chư Tử, Thi Phú, đều do Lưu Hướng hiệu đính. Các loại sách này phải phân loại là vì tính chất và thể tài của mỗi loại cũng đều khác nhau.
Thi Phú khác với Lục Nghệ và Chư Tử, điều này rất dễ thấy, còn Lục Nghệ và Chư Tử sở dĩ phải phân làm 2 loại, chẳng những là vì Hán Nho tôn trọng loại sách kinh điển, mà cũng vì tích chất và thể tài của hai loại sách này cũng đều khác nhau.
Dưới thời Tây Hán gọi Lục Kinh : Dịch, Thơ, Thi, Lễ, Nhạc, Xuân Thu là Lục Nghệ (khác với Lục Nghệ trong sách Chu Lễ là Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự, Thư, Số).
Thế nên trong pho Lục Nghệ lược, người ta ghi chép Lục kinh và các truyện ký như Luận ngữ, Hiếu kinh, và Tiểu Học, gồm tất cả 3 loại, nhưng 3 lo?i nầy chỉ đượïc xem như là phụ dung cho Lục Kinh mà thôi.
Trong pho Lục Kinh, chỉ có Nhạc là không có kinh sách (hay cũng có thể nói là Nhạc không có kinh sách riêng, mà chỉ phụ trong Kinh thi, hay cũng có kẻ nói Nhạc cũng có kinh sách, mà bị mất trong cuộc đốt sách dưới thời nhà Tần). Trong sách Lục Nghệ lược, chắc chắn nhứt là các phần : Dịch, Thơ, Thi, Lễ, Xuân Thu tổng cộng là 5 Kinh (Ngũ Kinh).
* Kinh Dịch lấy Quái từ, Hào từ làm kinh, do vua Văn Vương viết, (cũng có người nói Hào từ do Châu Công viết).
* Kinh Thơ do các Sử quan đời Hạ, Thương, Châu ghi chép những văn cáo được bảo tồn, truyền đến đời sau thành những sử liệu (thiên Tần thệ, thuộc thời kỳ sau cùng, đến thời Tần mục Công do Sử quan nhà Tần chép).
Phần Tụng trong Kinh Thi là những nhạc chương trong giao miếu dưới thời Châu, Thương và của nước Lỗ (thiên Thương Tụng, có người cho là tác phẩm dưới thời nhà Tống)
Về phần Phong trong Kinh Thi, đó là ca dao trong dân gian ở các nơi; về phần Nhã, thì đó là những bài thơ chê hay khen nền chánh trị đương thời.
Những phần kể trên do quan lại sưu tập, đưa đến cho quan Thái Sử phổ âm nhạc, vì thế mà cùng với phần Tụng trong Kinh Thi, do nhạc quan bảo tồn.
* Kinh Lễ có 17 thiên (tức là phần nghi lễ trong Thập tam kinh ngày nay) nguồn gốc là do Nghi chú mà ra, cũng do Lễ quan bảo tồn.
* Kinh Xuân Thu là sử nước Lỗ, do Sử quan nước Lỗ ghi chép và bảo tồn.
Vì thế, chúng ta có thể nói rằng, Ngũ Kinh đều là Quan thơ (sách của quan) đó là học thuyết của các nhà Kinh học cổ văn.
Các nhà Kinh học kim văn thì lại cho rằng Ngũ Kinh do Khổng Tử viết ra, phần Thoán truyện và Tượng truyện là do Khổng Tử thêm vô, phần Văn ngôn, Hệ từ, tuy chẳng phải tự tay Khổng Tử viết, nhưng đó cũng là của kẻ hậu học ghi thuật những lời nói của Khổng Tử, vì thế mà từ thuyết Thiên đạo đi lần đến Nhơn sự, và từ sách Bói toán, đi lần đến thành sách Triết học.
Kinh Thơ bắt đầu từ thiên Đế điển và chấm dứt ở thiên Tần thệ, toàn bộ quyển sách gồm 28 thiên.
Thời xưa, cổ thi có đến hơn 3000 thiên, có thuyết cho là Khổng Tử san định lại còn số 305 thiên. Mặc dù thuyết nầy không có gì đáng tin, nhưng chánh Nhạc là phải chánh Thi, làm cho các phần Nhã và Tụng đúng với vị trí và công dụng, đó là điều có thể tin được. Chính Khổng Tử cũng đã xác nhận điều đó (trong thiên Tử Hãn, sách Luận ngữ, Khổng Tử nói : " Ta từ nước Vệ, trở về nước Lỗ rồi sau đó chính Nhạc, làm cho hai thiên Nhã và Tụng đúng chỗ... ")
Về phần luận về Thi, Khổng Tử cũng có những ý kiến độc đáo, như phân loại Thi thuộc về các thể : Hứng, Quan, Quần, Oán và Tư vô tà, v.v...
Về Lễ, thì Lễ quan chỉ bảo tồn được có 17 thiên, những thiên ấy thuộc về phần Sĩ Lễ, chỉ áp dụng cho các quan chức nhưng Khổng Tử dùng những điều ấy để dạy học trò.
Kinh Xuân Thu là sử nước Lỗ, Khổng Tử thêm bớt, phê phán, để làm thành những gương...những bài học, cho nên Mạnh Tử mới cho là Khổng Tử viết Kinh ấy (xem thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử).
Ngũ Kinh là sách do các quan chức thời ấy ghi chép và sưu tập, Khổng Tử sửa chữa và sắp xếp lại cho có thứ tự, vì thế ông mới bảo rằng : " Thuật nhi bất tác " (Thuật lại mà chẳng có viết gì) (xem trong thiên Thuật nhi sách, Luận ngữ).
Nhưng sau khi được Khổng Tử biên soạn lại, Ngũ Kinh lại có được những ý nghĩa mới và những giá trị mới, như thế là có thể nói : Khổng Tử " thuật " mà có " sáng tác "...
Ngũ Kinh nguyên là Quan thơ (sách của quan lại biên soạn) còn sách của Chư Tử là sách sáng tác của tư nhân, khác hẳn với loại Quan thơ.
Khổng Tử đã san định Ngũ Kinh, lấy " thuật " làm sáng tác, nhưng kể cho đúng là phải nói " thuật chớ không có sáng tác gì cả ".
Trong pho Lục Nghệ lược, có ghi chép những phần : Truyện, Ký, Thuyết, Cố sự, mặc dù đó là những trước thuật của tư nhân, nhưng đó cũng là những tác phẩm giải thích thêm Kinh, truyện cũ , cho nên cũng phải kể là " thuật " chớ không có " sáng tác " gì thêm.
Về phần sách của Chư Tử, thì mỗi người ghi chép ý kiến riêng của mình để lập thành một học thuyết riêng biệt, không cần dựa vào một tác phẩm sẵn có nào để ký thác tâm tư riêng của mình, vì thế phải gọi là sáng tác chớ không phải thuật, vì những tác phẩm ấy có những tính chất và thể tài riêng biệt khác hẳn với các loại cổ thơ. Đó là chỗ khác biệt giữa hai loại sách Lục Nghệ và Chư Tử vậy.
Tại sao các tác phẩm sáng tác ấy lại được gọi là của ông " Tử " này, ông " Tử " nọ ? Là vì thuở ấy học trò thường gọi thầy là " Tử " rồi thêm vào cái họ của thầy để phân biệt người này với người khác...ví dụ như Mặc Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử...v.v...
Đa số sách của Chư Tử, đều không phải do chính tay của người ấy viết mà chỉ do đệ tử hay kẻ hậu học ghi chép lại.
Ban đầu những lời ghi chép thật đơn giản, rồi sau đó lần lần được biên soạn thêm cho đầy đủ gom thành sách. Sau khi thành sách rồi, bất câu là do của ai ghi chép, chỉ noi theo những lời ấy của ai đã nói ra mà ghi tên người ấy lên đầu sách để biểu thị cuốn sách ấy nguyên do là của người ấy xướng xuất ra.
Như các sách của Trang Tử, Mặc Tử, v.v...đều do học trò ghi chép lại những lời của thầy, gom góp, sắp xếp lại thành sách và ghi lên trên tên của thầy.
Gom tất cả các loại sách ấy lại nói chung là Chư Tử vậy.
Chúng ta cũng nên tìm hiểu tại sao lúc ấy người ta dùng chữ Tử để gọi thầy. Uông Trung trong quyển Thuật học đã viết : " Đời xưa các chức Khanh, Đại Phu đều gọi là Tử. Tử là tước ngũ đẳng... "
Gần đây, ông Chương Bính Lân trong sách Chư Tử lược khảo cũng có viết : " Chư Tử cũng y như ngày nay chúng ta gọi là " ông ".
Đệ tử ghi chép lời Khổng Tử, hay trước mặt thầy đều dùng chữ Tử, còn người khác khi đề cập đến Khổng Tử thì dùng từ ngữ " Phu Tử " (xem thiên thứ 10 trong sách Thượng luận...vấn đề nầy được phân biệt rất nghiêm minh).
Chữ " Tử " cũng như ngày nay chúng ta gọi " Tiên sinh ", chữ " Phu Tử " cũng có nghĩa là " Tiên sinh ấy ".
Cũng có thể vì các học giả ấy đã từng làm quan (thường là chức Tư khấu) nên mới gọi là Tử.
Khổng Tử đã từng giữ chức Tư khấu, sau đó, Mặc Tử làm Đại Phu nước Tống, Mạnh Tử làm chức Khanh ở Tề, cho nên đệ tử mới dùng chữ Tử để gọi.
Xưng hô như thế, đời nầy truyền sang đời nọ thành thói quen, cũng có khi một người nào đó chưa từng làm quan cũng được đệ tử gọi là Tử như trường hợp của Trang Tử.
Truy nguyên, chữ " Tử " thấy dùng đầu tiên ở môn phái Khổng Tử, rồi kế tiếp sau đó các phái khác dùng theo.
Đời sau cũng có người dùng từ ngữ Bách Gia Chư Tử, cũng đồng với ý nghĩa Chư Tử, nhưng sở dĩ dùng thêm Bách Gia là muốn nêu lên ý nghĩa số nhiều trong nền học thuật phong phú của thời đại ấy.
2. - Người mở đầu cho Chư Tử
Đệ tử gọi thầy là " Tử " ghi chép lời nói, việc làm, đạo đức của thầy. Sách sáng tác của tư nhân, bắt đầu từ môn phái của Khổng Tử như phần trên đã viết. Tư nhân mở trường dạy học, tư nhân san định Quan thơ để thành tác phẩm của mình, cũng bắt đầu từ thời Khổng Tử, thành ra Khổng Tử là người mở đầu cho Giáo dục sử và Học thuật sử Trung Hoa, mà có lẽ luôn cho cả vùng Đông Phương, và cũng là người mở đầu cho Bách Gia Chư Tử thời Chu, Tần.
Trước thời Khổng Tử, chỉ có Quan học, mà chưa có thầy dạy học tư, chỉ có Quan thơ, mà chưa có sách do tư nhân trước thuật.
Trong số Chư Tử có Lão Tử đồng thời với Khổng Tử, nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử.
Quyển sách của Lão Tử, tương truyền ông viết ra trong khi đi ngang qua cửa ải vào miền Trung nguyên, điều nầy thấy có chép trong pho Sử Ký, ở phần Lão Tử truyện.
Học giả đời sau có kẻ cho Lão Tử là người mở đầu cho Chư Tử. Thật ra, xét kỹ, thì chuyện Lão Tử trong sách Sử Ký, có chỗ mơ hồ, không đáng tin...và Lão Tử là người như thế nào ? Đó còn là một nghi vấn.
Quyển sách của Lão Tử là do người đời sau góp nhặt, tác phẩm ấy do nhiều người và cũng trải qua một thời gian khá lâu mới hoàn thành. (Phần sau của sách này có trình bày rõ).
Hơn nữa Lão Tử cũng không có mở trường dạy học trò, nên họïc thuyết của ông không nhờ đó mà được môn đệ ghi chép lại, cũng y như tình hình của Hoàng Đế, Thần Nông, Y Doãn, Quản Trọng, sách chỉ do người đời sau lượm lặt hay nghe ngóng, truyền khẩu rồi chép lại.
Thế nên, trong Chư Tử chỉ có mình Khổng Tử là người đầu tiên mở đường cho học thuyết của Bách Gia, và quyển Luận Ngữ là quyển sách thứ nhứt đáng kể trong các tác phẩm của Chư Tử.
Tại sao trước thời Khổng Tử lại không có tư nhân viết sách và tư nhân mở trường dạy học ?
Điều nầy có thể do 2 nguyên nhân :
1) Dưới thời cổ đại văn minh vật chất chưa phát triển, giấy viết, bút mực chưa phát minh, mà sách vở chỉ mới bắt đầu có.
Lúc đó người ta dùng mai rùa, thẻ tre, có công dụng như giấy bây giờ, dùng dao khắc để thay cho viết mực. Sách là những thẻ tre có khắc chữ ghép lại, nhưng bắt đầu dùng những vật dụng ấy tự bao giờ thì cho đến ngày nay, chưa thấy sách vở nào ghi chép lại, nên không dám quyết định.
Trong thiên Đa sĩ kinh Thượng thơ có chép : " Duy tiên nhân, nhà Ân có điển, có sách ". Chữ khắc trong mai rùa, (qui giáp) chữ " sách " tượng hình bó thẻ tre cột xâu (xem trong " Ân khư thơ khế tiền biên " quyển 5) còn chữ " điền " thì tượng hình hai bàn tay ôm gộp bó thẻ tre.
Chữ " sách " tượng hình sách vở làm bằng thẻ tre, chữ " điển " là chỉ sự tàng trữ sách vở.
Về văn tự trong qui giáp, một số học giả cho là văn tự dưới thời nhà Ân (1751 trước T.C.), như thế là dưới thời nhà Ân cũng đã có sách làm bằng thẻ tre. (Hình 1)
Dùng dao khắc, bôi sơn vào thành chữ, việc làm vụng về và khó khăn, xâu thanh tre thành sách phiền phức và bề bộn, cho nên tàng trữ sách đã khó khăn, mà viết ra sách lại càng khó khăn hơn, vì thế mà quan lại, chính quyền mới có được sách, còn tư nhân thì không đủ sức để làm ra sách và giữ sách.

Những chữ khắc trên xương thú và mai rùa phát hiện được ở gò nhà Ân.
Đây là tài liệu về chữ viết và sách vở cổ nhứt của Trung Hoa.
(Theo " Ân khư thư khế Thanh Hoa ".
Trích trong Trung Quốc Văn học sử của Trịnh chấn Đạc
quyển 1 trang 28).
2) Chế độ chính trị, xã hội thời Cổ đại, giai tầng Bình dân và giai tầng Quí tộc rất cách biệt nhau.
Giai tầng Quí tộc thống trị về chính trị, trên phương diện kinh tế lại là những đại địa chủ, quan tước cha truyền con nối, điền thổ truyền từ đời nầy sang đời khác, và cũng hưởng một nền giáo dục khác biệt.
Giới Bình dân thuở ấy chỉ là nông nô của Quí tộc mà thôi. Trong quyển Đọc Thông giám luận, Vương Phù Chi đã viết " Những quốc gia dưới thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đất đai rất hẹp, chỉ bằng một huyện ngày nay mà thôi, kẻ làm quan chỉ ở trong vòng một trăm dặm, con cái của các quan cũng là quan (sĩ) mà người làm quan do cha truyền con nối thì cũng có thế điền do cha mẹ để lại ".
Lúc đó có Khanh, Đại Phu thì bây giờ cũng như thân hào ở hương lý mà thôi (làng xóm).
Đất đai cha truyền con nối, vì thế đời đời trông nom việc cày cấy, săn sóc bờ ao, và cai quản luôn số nông nô cũng đời đời cha truyền con nối làm nông nô.
Số nông nô nầy không có chút địa vị gì về phương diện kinh têá hay chính trị cả, mà cũng không có điều kiện gì để được học hành, sách vở thì chỉ nhà quan mới có, và tử đệ của lớp Quí tộc mới được đọc, lớp người Bình dân đâu có dịp nào để rờ đến quyển sách được.
Nếu số nông nô được bén mảng vào cung phủ của Quí tộc, là chỉ để phục dịch mà thôi, thế nên trong pho " Thượng Thơ " thiên Châu quan có viết :
" Học cổ nhập quan " (muốn học người xưa thì phải vào nhà quan), thiên Khúc lễ trong sách Lễ ký cũng có viết : " Học với nhà quan v.v... "
Nếu như bực thứ nhơn có được làm một việc gì dính liếu với nhà quan thì cũng chẳng khác gì lớp lao công hay tạp dịch ngày nay...Họ chỉ được học những điều hiểu biết sơ sài để làm được trách nhiệm mà thôi.
Những điều hiểu biết ấy rất nông cạn, không thể gọi là học thuật được. Ở lâu trong hoàn cảnh như thế, và chính họ, họ cũng thấy không cần phải học những điều cao thâm làm gì cho vô ích, vì thế học thuật không lan tới lớp Bình dân được.
Lớp Bình dân đã không sách vở, không học thức thì làm sao dạy người khác học, và làm sao viết sách được ?
Lớp Quí tộc có trí thức, nhưng vì phải làm việc chính nên đâu có thì giờ để dạy học trò, viết sách ; và đã là Quí tộc, họ đâu có chịu hạ mình, vì thế dù cho có thì giờ rỗi rảnh, họ cũng không bao giờ chịu tiếp xúc với giới Bình dân thành ra giới Bình dân dâu có điều kiện gần gũi với giới Quí tộc để được học hỏi.
Giới cầm quyền đã thực thi chánh lịnh một cách dễ dàng, thế nên các phép lịnh, điển chương cứ như thế mà truyền đến đời sau, và các sách vở ấy thành ra Quan thơ. Và chính giới cầm quyền, lúc ấy cũng không thấy cần thiết phải dạy thêm điều gì mới lạ để xướng minh học thuyết nào khác riêng biệt của mình.
Tình hình thời Cổ đại là như thế, cho nên chỉ có Quan thơ, mà không có sách của tư nhân trước thuật, chỉ có nền học của nhà quan mà không có thầy tư nhân dạy.
Trước đây, dưới thời nhà Thanh, Chương Học Thành đã viết : " Từ thời Tam đại trở về trước, nền học thuật chỉ để phụng sự cho việc công, kẻ học giả làm quan, và người làm quan với thầy dạy học là một v.v...Đó là sự thật, một sự thật tất nhiên của thời ấy, chớ không thể gọi đó là một thời thạnh trị được.
Chế độ Quí tộc tồn tại, hưng thạnh và suy vi cùng đi một nhịp với chế độ phong kiến của thời ấy. Mà chế độ phong kiến là chế độ Bộ lạc của thời Thượng cổ biến thành chế độ Tù trưởng, Chư hầu.
Xét cho kỹ, các nước chư hầu của thời ấy chỉ là một hình thức biến tướng của Bộ lạc mà thôi.
Đến thời Xuân Thu (770-222 trước T.L.) các nước chư hầu nhỏ, bị các nước lớn thôn tính, và đó cũng là mở đầu cho việc tan rã của chế độ phong kiến, các nước nhỏ bị thôn tính, bị chia thành quận huyện dưới quyền cai trị của trung ương, hình thành lần lần chế độ tập quyền. Đến đời Tần Thuỷ Hoàng (221 trước T.L.) chế độ phong kiến bị chấm dứt, vì nhà Tần đã tóm thâu tất cả các nước chư hầu lớn nhỏ còn sót lại.
Tầng lớp Quí tộc suy vi, lớp Bình dân có cơ hội quật khởi, đó là diễn tiến tất nhiên của lịch sử, không một lực lượng nào có thể ngăn lại được.
Và cũng từ đó, vải lụa được lần lần thay thế cho thẻ tre trong việc ghi chép. Đây là một đặc điểm mới về văn hoá cuối thời Xuân Thu.
Trong sách Luận Ngữ có chép : " Tử Trương viết ở dãi áo ". Mặc Tử cũng có nói : " Viết ở thẻ tre và lụa ". Đó là những bằng chứng, vào thời ấy, người ta dùng vải lụa để viết, thay thế lần lần cho thẻ tre.
Truyền rằng người nước Tề là Tiết Tắc chế ra mực, người nước Tần là Mông Điểm chế ra bút, đều là những người dưới thời Chiến Quốc (222 trước T.L.)
Nhờ việc sáng chế bút mực, người ta khỏi phải dùng dao để khắc chữ và bôi sơn để viết lên tre hay mai rùa, và Khổng Tử đã may mắn sanh vào thời gian ấy.
Theo sách vở ghi chép thì Khổng Tử sanh trong gia đình một Quí tộc ở nước Tống, rồi dời sang nước Lỗ, và trở thành một gia đình trong giới bình dân.
Khổng Tử là người ham học, chịu khó tìm hiểu, học mà ít nhờ thầy, chỉ nhờ nỗ lực riêng của mình mà hiểu biết, cho nên mới trở thành một học giả xuất sắc.
Lúc còn nhỏ, ông sống trong giới bình dân, lớn lên có ra làm quan rồi sau đó mất địa vị chánh trị, vì thế không thực hiện được lý tưởng cứu đời của mình.
Đó là chỗ không may của Khổng Tử, mà cũng vì không được ở lâu trong chánh quyền, ông mới lo sang việc dạy học trò, viết sách, lập ra học thuyết để dẫn dắt cho đời sau.
Ông đã mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử giáo dục và học thuật nước Trung Hoa. Ông cũng khơi nguồn cho Bách Gia Chư Tử sau này, đáng kể là một học giả đã mở đầu cho một thời đại sáng lạn của Trung Hoa.
Trong cái không may (không được làm quan lâu) Khổng Tử đã làm được một điều có thể nói là vĩ đại trong lịch sử.
Trong sách Tả truyện, đoạn Tương Công năm thứ 24 có viết : " Bực thái thượng lập đức, kế đó là lập công và kế đó là lập ngôn " (xây dựng học thuyết).
Lập đức, lập công, tức Trang Tử gọi là đại nghiệp của Nội Thánh, Ngoại Vương. Nếu không lập công được thì bất đắc dĩ phải viết sách, dạy người ; lập ngôn là để lại cho hậu thế được nhờ.
Khổng Tử biên soạn Kinh Thơ, củ chánh Kinh Thi, san định Kinh Lễ, là chỉ làm việc chỉnh lý lại các sách ấy. Còn việc san định Kinh Dịch, sửa Kinh Xuân Thu thì lại có công làm cho những pho sách cổ ấy có những ý nghĩa mới và có những giá trị mới, tức là đã biến Quan thơ thành ra tác phẩm của tư nhân. Với câu " Thuật mà không sáng tác " thật ra là lấy việc thuật làm việc sáng tác, cũng như đoạn trên đã nói.
Sự việc, và cách hành văn trong Kinh Dịch và Xuân Thu mường tượng như quyển sử nước Lỗ, nội dung của Thi, Thơ, Lễ không có gì thay đổi, vì thế đứng trên phương diện nội dung và thể tài mà xét, thì những sách kể trên là Kinh truyện chớ không phải là Chư Tử, thế nên mặc dù đó là mở đầu cho việc tư nhân sáng tác, nhưng phải liệt những tác phẩm ấy vào pho Lục Nghệ lược.
Sách Luận Ngữ là do môn đệ của Khổng Tử ghi chép lời của thầy, đầy đủ điều kiện để thành lý thuyết của một môn phái riêng biệt, và cũng nhận thấy đầu đủ tính chất, thể tài riêng biệt của học thuyết Khổng Tử ở trong sách ấy, khác hẳn với Kinh truyện.
Vì sách Luận Ngữ chỉ ghi ngôn ngữ của Khổng Tử, và có ghi kèm theo lời nói của các Đại đệ tử, cho nên mới đặt tên thành một quyển sách riêng biệt.
Đệ tử, môn nhơn ghi những lời nói của Thầy, thành một tác phẩm riêng biệt của tư nhân bắt đầu từ đó.
Kế tiếp, Mạnh Tử đã tự nguyện học theo Khổng Tử, trong sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, những lời nói Khổng Tử cũng do đệ tử ghi chép, nên toàn bộ sách này cũng phỏng theo lề lối của Luận Ngữ.
Tính chất và thể tài của hai quyển Luận Ngữ và Mạnh Tử hoàn toàn giống nhau.
Trong pho Hán chí, Mạnh Tử được liệt kê vào phái Nho gia, trong Chư Tử lược, còn sách Luận Ngữ thì lại được ghép vào Lục Nghệ lược chỉ với ý nghĩa là muốn độc tôn Khổng Tử.
Xét trên thực tế, ghép pho Luận Ngữ vào Lục Nghệ lược thấy không thoả đáng bằng cách đặt pho sách nầy lên hàng đầu của Bách Gia Chư Tử.
Thân thế Chư Tử là bắt đầu từ Khổng Tử, còn sách Luận Ngữ cũng là pho sách mở đầu cho Chư Tử nên trong phần lược khảo về tác phẩm, chúng tôi cũng bắt đầu từ pho Luận Ngữ.
3. - Các môn phái trong bách gia chư tử
Từ Khổng Tử trở về sau, việc tư nhân dạy học, tư nhân sáng tác đã trở thành một phong trào, và nền học vấn của vua quan cũng lan lần trong dân gian. Kẻ hiền tài, bực nhân sĩ, nhìn thấy cuộc đời thay đổi, muốn đem sở học của mình ra để cứu nguy thời thế, để dạy dỗ hướng dẫn người sau, vì thế mà phong trào học tập sôi nổi, phong trào sáng tác cũng tiến lên mạnh mẽ, sách vở lần lượt ra đời rất nhiều. Nhờ thế mà Bách Gia Chư Tử xuất hiện, hình thành một thời đại vàng son trong ngành học thuật nước Trung Hoa.
Thật ra Bách Gia Chư Tử thật có nhiều, nhưng chúng ta không thể nào biết được một cách chính xác về nhân vật và học thuyết của những nhà ấy như thế nào.
Chúng ta chỉ đành tìm hiểu được trong một phạm vi có hạn nào đó thôi, và mỗi người tùy theo khả năng và sở thích của mình mà tìm hiểu chỗ mình muốn.
Sở dĩ như thế là vì tài liệu lưu truyền cho đến ngày nay bị thất lạc rất nhiều, và lúc ấy, các Môn phái cũng nhiều và cũng phức tạp.
Về tài liệu ghi chép các Môn phái trong Bách Gia Chư Tử, trước tiên thấy có trong sách Trang Tử ở thiên Thiên hạ.
Trong thiên này, Trang Tử đã sắp " Các kẻ sĩ của nước Trâu, Lỗ " vào phần tổng luận, mà kẻ sĩ của Trâu, Lỗ, người đời sau gọi là Nho gia vậy.
Kế đó lại viết " Nền đạo thuật bị phân chia " đó là muốn nói đến Chư Tử.
Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử đã cho rằng Khổng Tử là người mở đường cho Bách Gia Chư Tử. (Nên chú ý : thời ấy viết Trâu Lỗ chí sĩ là nói đến Khổng Tử, còn Mạnh Tử thì gọi là Lỗ Trâu, nên phân biệt rõ).
Khi bình luận Chư Tử, Trang Tử đã sắp Mặc Định và Cầm hoạt Ly vào một phái, tức gọi là Mặc gia, Tống Hình và Doãn Văn cũng làm một phái, phái nầy tiếp cận với Mặc gia. (Sách Hán chí kể Tống Tử vào phái Tiểu thuyết gia).
Trang Tử cũng sắp Doãn Văn, vào phái Danh gia, mà Lưu Hàm thì lại cho rằng Doãn Văn lại gần với Hoàng Lão hơn. Có người lại sắp Tống Hình với Doãn Văn nằm trung gian ở giữa hai phái Đạo gia và Mặc gia.
Về phần Bành Mông, Điền Biền và Thận Đáo thì sắp thành một phái, học thuyết gần với Đạo gia. (Về Bành Mông thì không thấy tài liệu nào nói rõ, theo sách Hán chí thì Đạo gia có Điền Tử, Pháp gia có Thận Tử, nhưng trong thiên Giải Tế, sách của Tuân Tử thì lại nói Thận Đáo học theo thuật của Hoàng Lão).
Huệ thi là một phái riêng tức là phái Danh gia, Quan Doãn, Lão Đam làm một phái, Trang Chu là một phái riêng, tất cả đều là Đạo gia.
Trong thiên Thiên hạ của sách Trang Tử, chỉ ghi tên người đại biểu cho từng môn phái mà không liệt kê vào hệ thống nào, sau đó mới nhận xét tính chất của các môn phái tìm chỗ tương đồng mà xếp vào các hệ phái lớn, gồm có : Nho, Đạo, Mặc, Pháp và Danh gia.
Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử đã phân làm 6 phái : Đà Hào, Ngụy Mâu làm một phái, Trần Trọng, Sử Du làm một phái ; Mặc Địch, Tống Hình làm một phái ; Thận Đáo, Điền Biền làm một phái ; Huệ Thi, Đặng Tích làm một phái ; Tử Tư, Mạnh Kha làm một phái.
Ngụy Mâu tức là người trong sách Hán chí gọi là Ngụy Công Tử, Mâu Thuộc phái Đạo gia, còn Đặng Tích thì sách Hán chí ghép vào phái Danh gia. Tử Tư và Manh Kha thì sách Hán chí liệt vào Nho gia.
Trần Trọng tức là người trong sách Mạnh Tử gọi là Ô Lăng Trần Trọng Tử, còn Sử Du tức là người trong sách Luận Ngữ phê phán " Sử Ngư là người chánh trực ". Trần Trọng và Sử Du là hai người nổi tiếng về đức hạnh mà không có trước thuật quyển sách nào nổi danh.
Trong thiên Phi thập nhị tử, Tuân Tử đã đề cập đến các phái, nhờ đó mà sau nầy, mới có tài liệu để phân tích sắp xếp thành hệ phái.
Tóm lại, trong tất cả Chư Tử, từ trước đến nay, ai ai cũng sắp xếp vào trong 5 hệ phái lớn mà thôi, tức là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia và Danh gia.
Các phái trong Chư Tử đều được sắp xếp vào hệ phái tức là " Gia ". Nhưng trong số 5 hệ phái ấy, chỉ có Nho, Mặc là xuất hiện trước hơn hết.
Trong thiên Tận Tâm, Mạnh Tử có viết : " Bỏ họ Mặc thì về họ Dương, bỏ họ Dương thì về Nho " (Dương tức là Dương Chu không phải là tên một học phái, còn Nho và Mặc đều là tên của học phái).
Trong thiên Hiển Học, Hàn Phi có viết : " Học thuyết nổi nhứt của thời nay là Nho và Mặc ". Như thế thì dưới thời Chiến quốc, chỉ có Mặc gia là tương đương được với Nho gia mà thôi.
Trong thiên Định pháp, Hàn Phi đã bàn đến Thương Ưởng và Thân bất Hại mà chỉ dùng chữ Định Pháp, như thế thì dường như dưới thời Chiến quốc, chưa có ai dùng đến chữ Pháp gia...
Trong phần Tự tự, sách Sử ký có dẫn lời Tư mã Đàm, luận về ý nghĩa trọng yếu của Lục gia và liệt kê ra các Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia và Đạo đức gia so sánh với Trang Tử và Tuân Tử thì thấy có thêm một nhà nữa là Âm dương gia.
Theo sách Hán chí, có chép sách của Âm dương gia và Tống tư Tinh tử Vĩ.
Tư mã Đàm gọi sở trường của phái Âm dương gia là " trình bày sự thuận lợi của 4 mùa ". Sách Hán chí thì gọi sở trường của Âm dương gia là : " Hiểu biết ngày tháng trăng sao để làm giờ cho người dùng ".
Như thế là phái Âm dương gia lấy " lịch " làm ngành học thuật chuyên môn của mình.
Cha con Tư mã Đàm, dưới thời Hán Võ Đế, làm quan Thái sử lịnh cha truyền con nối. Tư mã Thiên có viết : " Chép sử về lịch, trăng sao rất gần với việc bói toán ".
Tư mã Thiên đã định " Thái sơ lịch " cho vua Võ Đế, đó là nền học vấn gia truyền của họ Tư mã là môn Tinh lịch của Âm dương gia.
Trong thiên Đế điển của sách Thượng thơ cũng có chép điều nầy, nhưng không có bằng chứng xác đáng gì để tin, nếu cho rằng dưới thời vua Nghiêu đã có ngành học về " Tinh lịch " thật là một điều đáng nghi.
Có điều mà chúng ta dám quả quyết là " Tinh lịch " được phát minh sớm, có lẽ trước thời Xuân Thu, đó là điều xác đáng.
Tư mã Đàm đã tăng thêm trong số hệ phái, môn Âm dương gia cũng là điều hợp lý. Đến giữa thời Tây Hán, khi chép về các phái trong Chư Tử, thấy có phần khác hơn dưới thời Chiến quốc.
Đến cuối đời Tây hán, Lư Hâm viết về Chư Tử lược trong sách Thất lược có thêm nhiều phái hơn là Tư mã Đàm.
Lưu Hâm đã thêm 4 môn phái nữa là : Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu thuyết gia. Nhưng lại cho phái Tiểu thuyết gia là " tiểu đạo " không đáng kể.
Lưu Hâm đã viết : " Trong số thân gia Chư Tử, chỉ có 9 là đáng kể mà thôi ".
Trong sách Thất lược, Lưu Hâm có dùng chữ " Lưu " để chỉ là " phái ", vì thế người đời sau có dùng chữ " Lưu " như trong câu " Cửu Lưu tam giáo " để chỉ 9 phái và 3 tôn giáo.
So với Tư mã Đàm thì Lưu Hâm đã phân biệt thêm nhiều phái, như thế chúng ta có thể nhận xét là vào cuối thời Tây Hán, các thuyết của môn phái có phần khác hơn các phái xuất hiện vào giữa thời Tây Hán.
Tóm lại các phái trong Chư Tử, và ai đại diện cho từng phái là do theo sự nhận xét, phân tích của người đời sau, mà sự nhận xét ấy mỗi người mỗi khác theo sự chủ quan và cách qui nạp của mình.
Vì sự nhận xét và sắp xếp không giống nhau, cho nên người đại diện cho từng phái cũng được sắp xếp theo ý chủ quan của mỗi người.
Ví như Tống Tử, trong Hán chí thì cho là gần với Hoàng Lão, mà trong sách của Trang Tử lại sắp xếp ông nầy bên cạnh Doãn Văn, còn sách Hán chí thì lại sắp Mặc Địch (Mặc gia) vào môn phái Tiểu thuyết, thật là một điều rất chủ quan.
Tên gọi các phái trong Chư Tử cũng do người đời sau định ra, chớ không phải do người đã xướng xuất ra học thuyết ấy tự đặt cho phái mình dùng để hiệu triệu người khác và phổ biến học thuyết.
Vì thế, chúng ta thấy Khổng Tử là người khai sáng ra Nho gia, nhưng không bao giờ ông dùng chữ Nho để gọi học phái của mình (Điều nên chú ý là trong thiên Ung Dã trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử có câu : " Khổng Tử bảo Tử Hạ, người hãy làm quân tử nho, đừng làm tiểu nhơn nho. Chữ Nho ở đây là chỉ kẻ sĩ có học thức, một chữ thường dùng lúc đó, chớ không phải nho là Nho gia ").
4. Mười môn phái chính (thập gia) trong bách gia chư tử
Những phái riêng biệt trong Chư Tử, dưới thời Chiến quốc được phân chia ra làm 5, đến cuối đời Tây Hán (206 trước T.L.) thì tăng lên đến 10. Trong số các môn phái, chỉ có Nho gia và Mặc gia là thành lập trước hơn hết, cho đến cuối đời Tây Hán, các môn phái mới lần lần xuất hiện cho đến số 10.
Tên gọi của 10 môn phái nầy là do người đời sau đặt cho đúng với ý nghĩa của học thuyết từng môn phái :
Xin liệt kê ra sau tất cả số 10 môn phái :
1. Nho gia
Trong sách thuyết văn giải tự có viết : " Nho là nhu " (dịu hiền) đó là tên gọi của thuật sĩ, như vậy là chữ Nho có đến hai nghĩa " dịu hiền " và " cần thiết".
Trong sách Hán thơ, thiên Tư Mã Tương Như truyện chú có viết : " Người có đạo thuật đều là Nho ". Lời giải thích nầy hợp với Thuyết văn giải tự. Nho là tên gọi thông thường của những học giả.
Trong sách Sử Ký, phần Mạnh Tuân liệt truyện có viết : " Những Nho sĩ tầm thường như Trang Chu, v.v...Trang Chu vốn là Đạo gia, nhưng lại gọi là Nho sĩ, chỉ với ý học giả ".
Trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử bảo Tử Hạ : " Người hãy làm quân tử Nho, đừng làm tiểu nhơn Nho " cũng với ý trên.
Thuở ấy, những người có học thức, đạo học đều được gọi là Nho, bất câu quân tử hay tiểu nhơn.
Nho là tên gọi thường của học giả, nhưng tại sao môn đệ của Khổng Tử mới được gọi là Nho gia ?
Trong sách Chu Lễ có viết : "Nho là người có đạo thuật để dạy người ". Người có học thức và đạo thuật, và lại dạy người khác gọi là Nho, như thế Nho, cũng như ngày nay ta gọi là Nhà giáo dục vậy. Đó là nghĩa nới rộng của chữ Nho.
Trước thời Khổng Tử, chỉ có Quan học, không có thầy tư nhơn, tư nhơn lập trường dạy học trò đầu tiên là Khổng Tử.
Kế đó là các học trò của ông như : Tử Hạ, Tử Du, Tăng Tử, v.v... đều có dạy học trò, cho nên đều được gọi là Nho, rồi sau đó lần lần thành thói quen và thành Nho gia, tên gọi của học phái.
Trong sách Pháp môn của Dương Hùng ở thiên Quân tử có viết : " Người thông thiên địa gọi là Nho ".
Trong sách Luận Hoành của Vương Sung, thiên Siêu Kỳ có viết : "  Người có thể giảng được một kinh gọi là Nho ".
2. Đạo gia
" Đạo gia " tức là tên gọi rút ngắn của từ ngữ Đạo đức gia. Sách Hán chí gọi Đạo gia, nhưng Tư mã Đàm lại gọi là Đạo đức gia.
Đạo đức, Âm dương, Tung hoành là những học phái được gọi tên bằng hai chữ.
Sở dĩ học phái nầy được gọi là Đạo đức gia là vì quan niệm căn bản của phái nầy là đạo đức.
Trong thiên trên của sách Lão Tử có viết : " Đức lớn dung chứa, là Đạo theo liền đó... ", trong thiên dưới cũng có viết : " Đạo sanh đó, đức nuôi đó, vật thành hình đó, thế làm nên đó, thế cho nên vạn vật không ai không tôn đạo và quí đức. Cái tôn của đạo, cái quí của đức không gì hay bằng cứ để cho nó thường tự nhiên ".
Trong thiên Tâm thuật, Quản Tử cũng có viết : " Đức là chỗ chứa của đạo, sự vật nhờ đó mà sanh, cho nên có đức là được tất cả ".
Nếu biết dùng cái vô vi làm đạo, kể như không chú ý mà làm đức (cứ để cho tự nhiên) giữa đạo và đức không có khoảng cách, đó là thi hành đúng với đạo đức vậy.
Lão Tử và Quản Tử, tuy do người đời sau gom góp tài liệu, lời nói lại thành sách, nhưng cũng giữ được cái tinh nghĩa của Đạo gia.
Trong thiên Thiên địa, Trang Tử có viết : " Đức kiêm với đạo và đạo kiêm với đức " và " Thái sơ có và không, không và có là vô danh...bắt đầu từ một, có một mà chưa thành hình, vật nhờ đó sanh ra, đó là Đức ".
Lão Tử cũng thường nói : " Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật " tức Trang Tử gọi cái không của Thái sơ, tuy có mà chưa thành hình, đó là bắt đầu từ một và đó là Đạo.
Đạo là đạo tự nhiên của trời, đất, là tổng nguyên lý sanh ra vạn vật. Còn Đức là vật nhờ Đạo ấy mà thành hình, cũng tức là nguyên lý sanh ra vật ấy.
Đạo là cái " một " sơ khởi, cho nên mới nói Đạo sanh một rồi một sanh hai, sanh ba và sanh ra vạn vật.
Vật mà sanh ra được, là nhờ có Đạo, cho nên mới nói : Vật mà nhờ đó sanh ra gọi là Đức.
Vật sanh mà Đạo gắn với liền với vật, thế cho nên mới nói Đức là " nhà " ở của Đạo.
Đạo là tổng nguyên lý của sự sanh ra vạn vật, còn Đức là nguyên lý riêng biệt để sanh ra vật ấy.
Đạo và Đức tuy hai mà một, cho nên mới nói " Đức gồm trong Đạo, và Đạo gồm trong Đức ". Đạo và Đức không có khoảng cách cho nên nói Đạo và Đức là luôn luôn phải dính liền nhau.
Đức cũng là một bộ phận của Đạo cho nên mới có câu : " Tư dung của Khổng Tử là có Đạo trong ấy rồi ". Vì thế cho nên vạn vật, không có gì mà không tôn Đạo và quí Đức !...
Cái tôn của Đạo Đức, không phải gò ép mà tự nhiên thường có. Vũ trụ luận của học phái nầy là quan niệm căn bản, thế cho nên mới gọi là Đạo đức gia, đó là chỗ tóm lược trọng yếu.
Một số người cho rằng câu đầu tiên trong thiên trên của sách Lão Tử : " Đạo khả đạo, phi thường đạo ", và kế đó trong thiên dưới có câu : " Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức ", vì hai câu đó, nên mới đặt tên cho quyển sách của Lão Tử là Đạo đức kinh.
Lão Tử là người khai sáng phái " Đạo gia ", tức là nhơn quyển Đạo đức kinh mà đặt ra danh hiệu đó. Hai thuyết kể trên đều không đúng.
Trong Thập Gia Chư Tử, không có ai dùng tên sách để đặt tên môn phái, tự nhiên Đạo gia cũng không thoát ra ngoài thông lệ ấy.
Hơn nữa, Lão Tử là một nhân vật truyền thuyết, chưa chắc là đã có thật.
Quyển Lão Tử là do người đời sau gom góp lại. Dưới thời Tây Hán, Lão Tử rất được tôn sùng, nhưng lại gọi chung ông với Hoàng Đế (Hoàng Lão).
Hoàng Đế là người sanh trước Lão Tử, nên không thể ghép chung tên để gọi một học phái được.
3. Mặc gia
Người khai sáng Mặc gia là Mặc Định, cho nên mới dùng họ Mặc đặt tên cho học phái gọi là Mặc gia.
Trong Chư Tử, 9 học phái khác đều không dùng họ của người khai sáng để đặt tên học phái, tại sao Mặc gia lại ở trong trường hợp khác biệt như thế ?
Thật ra, Mặc Tử không phải là họ Mặc. Gần đây, một nhà học giả là Giang Tuyền đã chứng minh điều đó trong quyển sách khảo về Chư Tử của ông, nhưng sở dĩ dùng chữ Mặc là có những ý nghĩa sau đây :
a) " Mặc " là một hình phạt trong " ngũ hình " của thời xưa, người bị hình phạt nầy bị đày đọa đưa đi làm những việc nặng nhọc.
Mặc Tử sanh ở nước Lỗ, lúc Nho gia đang toàn thịnh, ông chủ trương tiết dụng (kiệm) phi nhạc (không cần nhạc) tiết táng (giản dị trong việc chôn cất) tiết tang (giản dị trong tang lễ), đó là những chủ trương khác hẳn với thời xưa.
Ông chủ trương lao khổ, thậm chí đến mức xương không còn thịt, ống chân nhẵn không còn sợi lông vì làm việc quá nhiều.
Ông khác hẵn với các nho sĩ ăn mặc xênh xang, mũ mãng chỉnh tề, không làm việc động đến móng tay, cho nên người thời ấy xem ông như là một tên tội khổ sai.
b) Chữ Mặc cũng có nghĩa là " mực ". Mặc Tử chủ trương chịu lao khổ, tấm thân dầm sương dãi nắng, đội nguyệt, mang sao, thân hình đen đúa, gầy ốm như cây khô, số môn đệ ông cũng đều như thế, cho nên Tuân Tử thường bảo : " Tích Mặc " là lão " Mặc ốm " để chỉ sự sống khắc khổ của Mặc Tử.
c) Chữ " Mặc " cũng có nghĩa là " Mẫu mực " (thằng mặc). Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử luận về Mặc Tử có viết " Lấy mẫu mực để chỉnh đốn mình ". " Mặc Tử lúc sống không ca hát, lúc chết không tang phục, chỉ dùng quan nhỏ mà không có quách bên ngoài, đó là phép tắc của phái ấy ".
" Người đời nay theo Mặc Tử, dùng vải xấu làm y phục, ngày đêm không nghỉ, tự lao khổ, và cho rằng nếu không như thế thì không theo đúng đạo của vua Võ, và cũng không theo phái Mặc được ".
Mặc Tử đã dùng phương thức sống khổ, luôn luôn đúng theo mẫu mực, người lúc ấy nhìn thấy Mặc Tử và đồ đệ sống khác với người thường, mà chữ " Mặc " lại có nghĩa là bị phạt làm việc nặng nề, người ốm o gầy mòn, thế nên dùng chữ Mặc để gọi Mặc Tử với ý nghĩa châm biếm. Còn Mặc Tử với đồ dệ lại nghĩ rằng chữ Mặc có ý nghĩa là " mẫu mực " đủ nêu lên qui luật sanh hoạt khắc khổ của phái mình vì đó mà thừa nhận chữ " Mặc ", vì thế mà học phái ấy được gọi là Mặc gia luôn. (Xin xem thêm Mặc Tử của Tiền Mục và trong quyển Trung quốc Triết học sử của Phùng Hữu Lan).
4. Danh gia
Công tôn Long nói : " Danh là tên gọi của thực ". Thực là sự vật, còn danh là tên gọi của sự vật ấy, danh và thực phù hợp nhau thì là danh chánh và thực không phù hợp nhau thì danh bất chánh. Vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con (không làm tròn nhiệm vụ), thì danh và thực không phù hợp nhau.
Củ chính cái danh không đúng với thực, làm cho danh và thực phù hợp nhau đó là Chính danh. Danh và thực phù hợp nhau thì " danh định mà thực rõ ràng ", tự nhiên danh nổi tiếng và thực thu hút được người.
Cho nên bản nghĩa của danh chỉ là cái tên của sự vật đó, là từ ngữ thực thể, nói rộng ra, phàm các từ ngữ về hình thức động tác, vị trí, tính chất, số lượng cũng đều có đại biểu cho cái thực, đó cũng gọi là danh, cũng phải cần có phù hợp với sự thật.
Điều nầy tức là trong thiên Tiểu thủ của Mặc Tử đã nói " Lất từ trữ ý ", hay là dùng từ để biểu thị ý nghĩa.
Phàm dùng ngôn ngữ hay văn tự để biểu lộ ý thì phải dùng " từ ", mà từ thì phải dùng cho đúng với sự thật, đó là " Danh học ". Tính chất của học phái nầy cũng giống như thuyết " Nhơn minh " của nhà Phật, và " logique " của phương Tây.
Công tôn Long có nói : " Công tôn Long ghét danh và thực bị rối loạn, thế cho nên muốn suy biện để chính danh và thực để thay đổi thiên hạ ". YÙ của ông là như thế nầy : " Tôi đâu có phải là kẻ thích biện luận. Tôi chỉ muốn biện chính cái danh và thực bị rối loạn mà thôi... ", vì thế nên mới gọi học phái này là Danh gia.
Mặc Tử cũng có Kinh thuyết và Tuân Tử cũng có thiên Chính danh, như thế chúng ta thấy Danh học rất cần thiết và được nhiều học phái chú ý. Thuở ấy " Biện sĩ " (kẻ hay biện luận) cũng thường gọi là Danh gia, nhưng những nhà chuyên môn biện luận chỉ hay giỏi tài ăn nói mà không thấy đưa ra được học thuyết nào vững vàng.
5. Pháp gia
Hàn Phi có viết " Phép tắc, biên vào sách vở, để ở quan phủ và ban bố ra bá tánh ". Pháp đây là chỉ Pháp luật, chánh lịnh.
Trong sách Luận Ngữ, thiên Vi chánh có ghi lời Khổng Tử : " Dìu dắt dùng chánh, trị dùng hình, dân khỏi tội mà không biết sỉ nhục. Dìu dắt dùng đức, trị dùng lễ, thì biết sỉ nhục và thông đạt ".
Nho gia chủ trương dùng Đức, Lễ để trị (nặng về giáo dục) cho nên mới có lập luận như thế.
Còn Pháp gia thì phản đối thuyết của Nho gia, cứ chủ trương cầm Pháp luật mà trị.
Quản Tử có nói : " Vua tôi, trên dưới, sang hèn, đều tuân theo Pháp luật, đó là đại trị ". Ông cũng nói : " Cho nên Pháp luật là đạo cao trong thiên hạ, là điều thực dụng cho Thánh quân ".
Học phái nầy xem ra rất trọng Pháp luật, cho nên gọi là Pháp gia.
6. Âm dương gia
Sở trường của Âm dương gia là sao và lịch, trong phần trước đã có đề cập đến.
Trong thiên Tứ thời, Quản Tử có viết : " Âm dương là cái lý lớn của trời đất ". Tất cả tinh trượng, tứ thời, đều do cái âm dương của trời đất là chủ.
Sách Sử Ký có viết : " Dưới thời Uy và Tuyên của nước Tề, môn đệ của Trâu Tử luận trứ sự chuyển vận chung thủy của Ngũ đức ".
Trong sách Văn Truyển, Cố an Long dẫn lời văn trong Chiêu vương bi có viết : " Ngũ đức có gì hơn : Ngu thổ, Hạ mộc, Ân kim, Châu hỏa ".
Theo thuyết Ngũ hành tương khắc, thì mộc khắc thổ, kim khắc mộc, cho nên nhà Hạ thay nhà Ngu, nhà Ân thay nhà Hạ, nhà Châu thay nhà Ân...
Nhưng thủy cũng khắc hỏa, thổ cũng khắc thủy, cho nên vận hành của Ngũ đức là hết rồi trở lại đầu, đó là luật " Chung thủy Ngũ đức chi vận ".
Trong sách Sử Ký, thiên Mạnh Tuân liệt truyện có viết : " Trâu Viễn dùng cái chủ vận của Ngũ đức làm sáng tỏ với Chư hầu ". Cái vận hành của Ngũ đức : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ cũng do Âm dương làm chủ, cho nên quan sát tin âm dương là có thể biết cái vận hành Chung thủy của Ngũ đức.
Phái Âm dương lấy cái vận hành âm dương của sao, lịch và ngũ đức làm chủ, như thế chúng ta đã thấy rõ cái quan niệm căn bổn của phái ấy là âm dương rồi. Như vậy mới gọi là Âm dương gia.
7. Tung hoành gia
Từ Nam đến Bắc gọi là tung (dọc), từ Đông sang Tây gọi là hoành (ngang).
Dưới thời Chiến quốc, nước Tần ở phương Tây rất mạnh, các chánh khách thời ấy áp dụng hai sách lược ngoại giao. Tô Tần chủ trương 6 nước Nam, Bắc liên hợp để chống với Tần ở phương Tây, đó là hợp tung.
Trương Nghi lại chủ trương lục quốc nên hướng về phía Tây liên lạc với Tần, đó là kế hoạch liên hoành.
Lúc ấy kẻ đi du thuyết, không phải chỉ có Tô Tần, Trương Nghi mà thôi, nhưng sách lược của tất cả những người ấy, đều không ngoài hai chủ trương hợp tung và liên hoành, vì thế mới gọi là Tung hoành gia.
8. Tạp gia
Tạp gia trích dụng học thuyết của các phái khác, cho nên mới gọi là " Tạp ". Sách Hán Chí ghi những sách của Tạp gia, cho rằng Lã thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử là tiêu biểu hơn hết. Hai quyển sách này do môn khách viết ra, mà không phải do tự tay sáng tác của Lã bất Vi và Lưu An.
Tác giả những cuốn sách ấy không phải một người, mà là nhiều người ; mặc dù thế, những người viết ấy, cũng đều là những người có tài. Chữ " tạp " có ý nghĩa xấu, dùng ở đây thấy không được ổn lắm.
9. Nông gia
Hứa Hành chủ trương " vua tôi cùng đi cày " loại trừ giai tầng thống trị và bị trị, ý nghĩa cũng có chỗ độc đáo, học thuyết ấy từ Đạo gia mà ra, nhưng lại gán lời cho đó là của Thần nông. Các sách về Nông gia ghi trong sách Hán Chí, đều là những sách nói về cách làm ruộng, trồng dâu, trồng cây.
10. Tiểu thuyết gia
Sách Hán Chí viết : " 10 học phái trong Chư Tử, chỉ có 9 nhà là đáng kể ", là vì người ta cho rằng Tiểu thuyết gia là những kẻ " đạo thính, đồ thuyết ", là những kẻ hiểu biết tầm thường vụn vặt, không đi đến một kết quả nào, cho nên không đáng kể. Vì thế cho nên mới gọi tên là " Tiểu thuyết ".
Những quyển sách của Tiểu thuyết gia có ghi tên trong pho sách Hán Chí đều bị thất lạc tất cả. Căn cứ theo tên sách mà tìm hiểu, thì đó là những loại sách Ngoại truyện, Bút ký...các loại sáng tác lặt vặt.
Về môn phái nầy, ngoài Tống Tử ra, thì không còn ai đáng kể.
Có lẽ từ ngữ Tiểu thuyết của chúng ta đang dùng hiện nay là xuất phát từ đây.
 
5. - Sở trường và sở đoản của mười môn phái
Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử đã phê bình học thuyết của Chư Tử, nhưng trừ Quan Doãn, Lão Đam và Trang Chu, vì đó là người của môn phái mình. Trang Tử đã nói mỗi phái đều có sở trường và sở đoản. Ông phê phán Mặc Địch và Cầm hoạt Ly là học theo Đạo thuật đời xưa mà " không xa xí cho người đời sau, không khuất phục vạn vật, sống theo mẫu mực để chuẩn bị cho những cơn đói rét, thiếu thốn ". Đó là chỗ đáng khen.
Nhưng Mặc Tử đã thái quá, chí nhục, quá tiết kiệm, bỏ cả lễ nhạc thời xưa, lúc sống không ca hát, lúc chết không tang phục, tẩn liệm không quách mà chỉ có quan, bắt người phải theo như thế, e rằng chẳng biết thương người, mà chính mình cũng làm như thế là chẳng biết thương mình.
Khi còn sống cần cù làm việc, đến lúc chết tang lễ sơ sài, như thế làm cho người lo lắng, buồn rầu, cái hạnh như thế rất khó làm theo, e rằng không thể làm cái đạo của bực thánh nhân được.
Trái với lòng thiên hạ, thiên hạ không chịu đựng được, tuy một mình Mặc Tử có thể làm được việc đó, nhưng còn thiên hạ thì sao ? Đã xa rời thiên hạ thì làm sao đến bực vương giả cho được ? Thế nên ý của Mặc Địch và Cầm hoạt Ly thật là đúng, nhưng đến việc làm thì lại sai.
Giả sử như môn đệ của Mặc Tử áp dụng đúng chủ trương chịu đựng gian khổâ như thế, thì sẽ gây ra rối loạn v.v...Đó là lời phê bình của Trang Tử đối với Mặc gia.
Nhưng rồi ông lại viết tiếp : " Tuy nhiên, dù sao Mặc Tử cũng là người tốt trong thiên hạ, tìm được một người như thế không phải dễ. Chịu đựng được gian khổ, đó mới đúng là bực sĩ phu !
Người có tinh thần như thế, thật khó mà theo kịp ".
Phê bình Tống Hình và Doãn Văn, Trang Tử lại viết : " Truyền bá đạo thuật thời xưa mà không tục, không bị dính líu với hình thức bên ngoài, không gượng ép người, muốn cho thiên hạ bình yên, người và ta đều trọn vẹn ".
Trang Tử đã khen hai người kể trên : Hai người sừng sững như Họa sơn và người đầu tiên tiếp và dưỡng nuôi vạn vật, làm cho lòng người sáng tỏ.
Thi hành đúng với cái tâm, để điều hòa khắp nước, xứng đáng làm chủ trong thiên hạ. Được như thế thì cứu dân khỏi cảnh xung đột, ngăn chỉ việc đao binh, cứu đời khỏi vòng chinh chiến. Nếu thuyết ấy được lan khắp thiên hạ, thì trên vui mà dưới được thuận thảo. Nhưng chỗ sở đoản là làm cho người quá nhiều, còn làm cho mình thì quá ít, nhưng cũng có thể nói đó là bực sĩ phu cứu đời.
Bình luận về Bành Mông, Điền Biền và Thận Đáo, Trang Tử viết : " Phổ biến đạo thuật đời xưa, công bình mà không thiên vị, không tự tư, tự lợi, không tính toán, không phân biệt ".
Trang Tử đã khen những người trên : " Biết cái giá trị của vạn vật, biết vạn vật chỗ nào được, chỗ nào không, khoáng đạt, bỏ cá nhân mình...đứng lên bên trên thị phi, không quá tính toán, không quá dè dặt, suy nghĩ rồi hành động, việc gì cũng khiêm nhượng sau người, cho đến mức như là vô tri. Đó là đạt đến chỗ gọi là " Đạo " mà như chẳng phải " Đạo " (tự nhiên không gượng ép) có khi lời nói như là không đúng, như là không biết, nhưng thật ra là người hiểu biết. "
Phê phán Huệ Thi, Trang Tử cho rằng : " Sách ông có đến 5 xe, đạo ông nghịch thường, lời ông không đúng. "
Huệ Thi chỉ biết biện luận với người suốt ngày, là một người kỳ quái trong các biện sĩ trong thiên hạ.
Huệ Thi nói khắp cả vạn vật, nói mãi không thôi, nói nhiều không ngừng, mà cũng còn cho là ít, muốn có danh hơn người, vì thế mà không thích hợp với người.
Từ cái đạo của trời đất mà xem tài của Huệ Thi thì thấy nhỏ như muỗi, ruồi vậy.
Rất tiếc cho cái tài của Huệ Thi, cứ chạy mãi mà chẳng đến đâu, ảnh ngã phía trước, hình đuổi phía sau, mà chẳng bao giờ đến cả.
Trở lên, Trang Tử phê phán 6 Chư Tử, ai ai cũng có khuyết điểm, nhưng về Quan Doãn và Lão Đam thì không có lời gì phê phán khuyết điểm mà chỉ nói : " Quan Doãn và Lão Đam phổ biến đạo thuật đời xưa, lấy cái gốc làm tinh vi, lấy vật bên ngoài làm thô, chứa đựng mãi mà không đủ, có thể sánh với thần minh. "
Trang Tử đã khen hai người ấy : " Xây dựng cái thường trên cái có và không, chủ trương " thứ nhứt ", lấy khiêm nhượng biểu lộ bên ngoài, lấy không hư, không làm hại vạn vật làm thật, người người ai cũng giành trước, người ấy chỉ muốn sau, ai cũng muốn đầy, người ấy chỉ muốn trống, ai cũng muốn cầu phước, người ấy chỉ muốn vừa được thì thôi, người ấy chỉ muốn rộng rãi với sự vật, chẳng muốn hơn người.
Cái đạo như thế là " cùng tột " cho nên có thể bảo rằng : Quan Doãn và Lão Đam là người " bác đại, chân chân " của thời xưa vậy... "
Đối với Trang Châu thì sách Trang Tử cũng rất sùng bái gọi là phổ biến đạo thuật thời xưa : " Phiêu diêu như vô hình biến hoá vô thường, sánh cùng trời đất, đến với thần minh, minh mông mà đi, bỗng nhiên mà đến, trùm lên vạn vật, không đủ chỗ để về ở... "
Trang Tử đã khen những người ấy : " Dùng thuyết như sai lầm, lời nói hoang đường, từ ngữ bao la, khoáng đạt mà không thiên với ai, không nên lấy đó làm kỳ, vì thiên hạ ô trược không thể cùng nói với Trang được, phải dùng lời nói bao la, nặng nề để đến chân lý, dùng ngụ ngôn để mở rộng, để đến với tinh thần trời đất, mà không ngạo nghễ với vạn vật, không vướng với thị phi, để cùng ở với thế tục.
Quyển sách của người ấy thật hoàn toàn không vết tích, ngôn từ thì lủng củng mà quái dị, nhưng lại đầy đủ mà không ngừng. Trên thì cùng đùa với vạn vật, mà dưới thì bạn với cái không chung, khôg thủy, không sanh, không tử. Căn bổn của người ấy rộng lớn mà lại còn mở rộng thêm, sâu sắc mà còn sâu hơn nữa.
Tông chỉ của người ấy rộng khắp mà hướng lên, tuy hóa với vật, hiểu sâu sắc với vật mà lý không bao giờ cạn.
Có người nghi rằng thiên nầy không phải do Trang Tử viết mà là môn đệ của ông, sau khi gom góp tài liệu của Trang Tử thành sách rồi viết một bài tựa, cho nên mới tôn sùng đề cao Trang Tử đến mức ấy.
Thiên Thiên hạ phê phán Chư Tử, tất cả đời sau đều làm tài liệu căn cứ, mà không kể ai thuộc môn phái nào.
Trong thiên Phi thập nhị tử của Tuân Tử cũng y như vậy, thiên nầy bài bác Thập nhị tử, cho nên chỉ ghi những sở đoản, mà không nêu lên những sở trường, cho nên đối với Đà Hào, Ngụy Mâu mới viết : " Buông lung tánh tình, hành động theo tánh tự nhiên của loài cầm thú, không thể hợp với văn minh. "
Đối với Trần Trọng, Sử Du thì viết : " Nhẫn tánh tình, tìm kẻ hở, để cho mình cao hơn người, thì không thể hợp với đại chúng ".
Về Thận Đáo và Điền Biền thì viết : " Thích pháp luật mà không tuân pháp luật, kẻ không thích pháp luật mà làm đúng, trên chỉ nghe theo lời trên, dưới thì thi hành theo thời thế, ngày ngày lời nói nghe rất mẫu mực, nhưng khi xét kỹ lại thì chẳng đúng vào đâu cả, như thế đâu có thể trị quốc gia được. "
Về Tử Tư và Mạnh Kha thì viết : " Biết qua về phép tiên vương nhưng không biết hệ thống lại, mà muốn có tài, chí lớn, kiến thức rộng mà lộn xộn, noi theo xưa mà tạo thuyết mới, gọi đó là năm hạnh (nhơn, nghĩa, lễ trí, tín) không ăn nhằm vào đâu cả, có nhưng điều tối tăm mà không mở ra ". Đây là những thành kiến rất sâu, không phải là những lời phê phán bình tĩnh khách quan.
Trong phần Tự tự của quyển Sử Ký, có dẫn lời của Tư mã Đàm, luận về ý nghĩa chủ yếu của 6 môn phái, trước hết nêu tên môn phái, rồi phê phán chỗ sở trường, sở đoản và sau cùng nêu tên người đại biểu cho môn phái ấy.
Lối viết như sau : " Thường nghe nói hễ xem thuật Âm dương quá tinh tế, thì mọi người đều e dè, làm cho người bị ràng buộc ở chỗ lo sợ, nhưng về việc ghi bốn mùa thuận lợi, thì việc đó không thể thiếu được.
Kẻ theo đạo Nho, học rộng mà không tóm lược, làm việc nhiều nhọc mệt mà kết quả ít, là vì lý thuyết khó noi theo, nhưng cái lễ thứ lớp trong đạo quân thần, phụ tử, phân chia ngăn nắp việc vợ chồng, kẻ lớn, người nhỏ, thì những điều ấy không thể thay đổi được.
Còn về Mặc gia thì rất khó theo, là vì việc làm của ông không thể làm theo hết được, nhưng thuyết làm cho mạnh gốc rễ, vốn liếng, tiết kiệm, thì không thể bỏ qua được.
Về Pháp gia thì nghiêm mà thiếu ơn đức, nhưng việc chánh danh phận quân thần trên dưới, thì không thể sửa đổi được.
Về Danh gia thì làm cho người tự xét mình, mà có khi đi đến chỗ mất chân chính, nhưng thuyết chính danh, thực, thì cần phải chú ý.
Đạo gia thì làm cho tinh thần người chuyên nhứt, hành động hợp với vô hình, đầy đủ với vạn vật, thuật của phái nầy là nương theo cái thuận lớn của Âm dương, trích lấy cái hay của Nho, Mặc, nắm yếu chỉ của Danh gia, Pháp gia...cùng mùa tiết thay đổi, nương theo vật mà biến hóa, theo thói đời mà hành động, không chỗ nào mà không hợp, chỉ dẫn chỗ trọng yếu cho dễ nắm, thì việc làm ít mà kết quả nhiều.
Phái Nho thì không như thế, họ cho rằng làm người chủ trong thiên hạ phải có nghi biểu bên ngoài, chúa xướng thì tôi phải theo, chúa làm trước thì tôi phải theo sau, như thế thì chúa nhọc mệt, mà tôi thì nhàn hạ. Còn chỗ trọng yếu của đại đạo thì phải cố gắng về vật chất lẫn tinh thần, nhưng tinh thần dùng quá nhiều thì khô cạn, sức dùng quá nhiều thì hình mỏi mệt, tinh thần và vật chất bị rối loạn, mà muốn lâu dài với trời đất, thì chưa nghe có ai được như vậy.
Theo Tư mã Đàm, thì trong mỗi Môn phái đều có sở trường, sở đoản, duy chỉ có Đạo gia hoàn toàn không có sở đoản.
Đến phần cuối, ông lại so sánh Đạo gia với Nho gia, cho chúng ta thấy Nho gia không thể nào sánh được với Đạo gia.
Trong phần Tự tự có viết Tư mã Đàm thường học Đạo luận với Hoàng Lão, thế nên đặc biệt mới suy tôn Đạo gia đến mức ấy.
Dưới thời Hán sơ, các bậc Đế vương như Văn Đế, danh tướng như Tào Tham, đều thích Đạo gia, Cảnh Đế tuy thích Danh gia, nhưng Đậu thái hậu lại tin Hoàng Lão, Thân Công vì chê Hoàng Lão mà đắc tội với thái hậu.
Dưới thời Cảnh Đế, Văn Đế, có phong trào sùng thượng Đạo gia mạnh mẽ, Tư mã Đàm sanh vào thời kỳ ấy, lại có nhiều sở đắc ở Đạo luận, cho nên ông mới khen Đạo gia như thế.
Nhưng ông viết về thuật của Đạo gia : " Nhơn đại thuận của Âm dương, trích cái hay của Nho, Mặc, nắm chỗ trọng yếu của Danh, Pháp gia ". Điều nầy có chỗ không đúng với sự thật vì dưới thời Tây Hán, khi nói đến Đạo gia, gọi là Hoàng Lão mà không nói Lão, Trang...
Hơn nữa, Lão Tử là tiền bối của Khổng Tử, lúc Khổng Tử đến gặp Lão Tử thì chưa sáng lập học phái, và Mặc Tử thì lại sanh sau Khổng Tử, không có cơ hội để gặp Lão Tử, hai phái Danh gia và Pháp gia lại thành lập vào lúc giữa thời Chiến Quốc, thì Lão Tử đâu có thể trích cái hay của Nho, Mặc, lấy cái trọng yếu của Danh và Pháp gia cho được ?
Hoài Nam Tử tên là Hoài Nam Hồng Liệt, Hồng là lớn, Liệt là sáng láng, ý muốn nói là làm sáng tỏ cái đạo.
Quyển sách nầy là do môn khách của Hoài Nam Vương Lưu An viết, trích các thuyết của các Môn phái Âm dương, Nho, Mặc, Danh, Pháp...biên soạn lại, mà ý thích thì thiên về Đạo gia.
Có lẽ dưới thời Tây Hán, người ta quan niệm Đạo gia theo sách Hoài Nam Tử, nên Tư mã Đàm mới viết như thế chăng.
Xét thêm ý trong sách Sử Ký thì thấy : " Nho gia quá rộng, mà không tóm lại được chỗ trọng yếu, nhọc công nhiều mà ít kết quả ". " Nho gia lấy Lục Nghệ làm phép tắc, về Lục Nghệ thì Kinh truyện có đến hằng ngàn, học suốt cả đời cũng chưa chắc là thông được, riêng về phần Lễ, học cả năm chưa xong ".
Xem qua lời phê phán trên, chúng ta thấy dưới thời Tây Hán, qua các sách vở được ghi chép lúc đó, chưa biểu hiệu được chân tướng các phái. Sở trường của Nho gia không phải chỉ ở phần Lễ, Mặc gia không chỉ ở Tiết dụng, Pháp gia không chỉ ở chỗ phân biệt quân thần, thượng hạ.
Vì các môn phái chưa phát triển đúng mức chân tướng của mình, có thể vì thế mà lời bình luận của Tư mã Đàm, không nêu lên được những điểm trọng yếu.
Trong phần Chư tử lược của sách Hán Chí, sau khi ghi chép xong sách của một Môn phái, liền ghi thêm lời tựa lên trên và sau cùng phê phán chỗ sở trường, sở đoản của từng Môn phái.
Phê phán Nho gia, sách Hán Chí đã viết : " Phái Nho gia, xuất thân từ nhà quan, nên giúp đỡ nhà vua thuận lẽ âm dương làm sáng tỏ giáo hóa, dẫn lời trong Lục Nghệ, và chú ý đến việc nhơn nghĩa, noi theo nền văn hiến, phép tắc của Nghiêu, Thuấn, Văn, Võ, tôn thờ thầy Trọng Ni, nên nền đạo rất cao ".
Khổng Tử có nói : " Nếu như có chỗ đáng khen, thì phải thí nghiệm thử ". Cái tiếng của Đường, Ngu, cái thạnh của Ân, Chu, Trọng Ni đã thí nghiệm. Cũng có thể bị mất cái tinh vi, và xa rời cái gốc đạo mà Nho học bị suy vi.
Ban Cố thì cho rằng, những lời phê phán trên là để phê bình lớp hậu Nho không còn giữ được tinh túy của đạo như nhóm Công tôn Hoằng, đó là cái tệ của một lớp người, của một giai đoạn, không thể lấy đó mà phê phán học thuyết được.
Phê phán Đạo gia, Tư mã Đàm viết : " Phái Đạo gia, xuất thân từ Sử quan, biết rõ cái đạo thành bại, tồn vong, họa phước, rồi sau đó biết chỗ trọng yếu nắm chắc căn bản, trong sạch, khiêm nhượng giữ mình, nhỏ nhoi, thấp kém, đó là cái thuật của vì nhơn quân ngồi day mặt về phía Nam...(ngồi theo vị trí của vua) hợp với lòng khắc nhượng của vua Nghiêu.
Trong Kinh Dịch có chữ Khiêm. Một Khiêm mà sanh ra bốn Ích, đó là chỗ sở trường. Nếu biết phát triển mà thi hành cho đúng, thì bỏ Lễ, Nhơn, Nghĩa, chỉ giữ trong sạch khiêm nhượng là có thể trị vì thiên hạ.
Dứt Lễ, bỏ Nhơn, Nghĩa, chỉ dùng trong sạch, khiêm nhượng để trị, Lão Tử đã có chủ trương như thế, chớ không phải từ chữ Khiêm trong Kinh Dịch phát triễn ra, chỗ nầy chắc có lẽ Ban Cố đã lầm.
Trong sách Hán Chí, ghi chép sách của Đạo gia, nhằm trước thời kỳ Lão Tử rất lâu, cho nên những người viết sách ấy cho rằng Đạo gia đã có từ trước thời Lão Tử.
Phê phán 3 Môn phái Âm dương, Pháp và Danh gia, sách Hán Chí viết : " Phái Âm dương gia ra từ quan chức của vua Hi, Hòa, kỉnh thuận trời đất, làm lịch ngày tháng trăng sao lập thì giờ cho dân, đó là sở trường của phái ấy, rồi có kẻ câu nệ, bày ra chuyện kiêng kị, số mạng, bỏ chuyện người mà cứ tin quỉ thần. Còn Pháp gia thì xuất thân từ Lý quan, có thưởng có phạt, để giúp cho Lễ chế.
Trong Kinh Dịch có viết : "Vì Tiên Vương trừng phạt rõ ràng để nêu Pháp luật... " đó là sở trường của Pháp gia. Nhưng nếu chỉ chú trọng hình phạt mà không giáo hóa, bỏ nhơn ngghĩa mà chuyên dùng hình pháp để trị, đến mức tàn hại thân tình, có hại đến ơn nghĩa.
Môn phái Danh gia thì phát xuất từ Lễ quan. Thời xưa danh vị bất đồng, Lễ cũng có thứ lớp khác nhau.
Khổng Tử có nói : " Tất là phải chánh danh, danh không chánh thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành. Đó là chỗ sở trường của phái Danh gia. Nhưng cũng có kẻ quỉ quyệt lạm dụng Môn phái, để làm rối loạn lòng người.
Ban Cố cho rằng Âm dương gia sở trường về lịch, thời tiết, mà có chỗ dở là bày ra kiêng kị (coi bói). Pháp gia thì dở ở chỗ khắc bạc, bại đến ơn nghĩa, Danh gia hay ở chỗ chánh danh, mà dở ở chỗ ngụy biện, cùng giống ý với Tư mã Đàm.
Duy ở chỗ bảo rằng " có thưởng có phạt " là chỗ hay của Pháp gia so với lời phê của Tư mã Đàm " Phân chia rõ quân thần, thượng hạ " thì thấy có phần gọn và sâu sắc hơn.
Dẫn tới chỗ dị đoan, hình phạt nghiêm, hại đến ơn nghĩa, biện luận quỉ quyệt, đó là chỗ dở của 3 Môn phái kể trên, nhưng nghĩ cho kỹ, không phải đó là cái dở của bản thân Môn phái ấy, vì theo Ban Cố, các nhà trong Môn phái ấy đều xuất thân từ vua, quan, nguồn gốc có từ lâu đời ; rồi đến thời Chiến Quốc, các môn đệ thời sau, làm mất cái bản sắc chân chính của Môn phái để đi lần đến chỗ sai lầm. Phải nghiõ như thế có lẽ đúng hơn.
Về phái Mặc gia thì có lời phê phán : " Phái Mặc gia xuất thân từ kẻ giữ Thanh miếu, ở nhà tranh vách đất, vì thế cho nên xem việc tiết kiệm làm đầu, mà cũng vì thế mà thương yêu mọi người, chuộng người tài, lo việc cúng kiến, thuận theo thời tiết bốn mùa làm lụng, không tin số mạng, dùng trung hiếu làm gương cho thiên hạ, thế cho nên trên dưới đồng nhau, đó là chỗ hay. Cho đến khi Môn phái suy đồi, thì tiết kiệm thành ra rít róng để lợi cho mình, vì đó mà mất cả lễ nghĩa, từ thuyết " kiêm ái " thương yêu mọi người mà đi đến chỗ không phân biệt thân sơ.
Quí việc tiết kiệm, kiêm ái, chuộng người hiền, thờ cúng người trước, không tin số mạng, trên dưới đồng nhau, sáu điểm ấy là chủ yếu của Mặc gia, nhưng không thể nói tất cả đó là điều hay.
Mặc Tử phản đối Nho gia là vì cái " Lễ phiền phức ", đó là điểm trước tiên, vì thế mà " chê cái Lễ phiền phức " là Mặc Tử đề cập trước nhứt.
Không phân biệt thân sơ, đó là kiêm ái, điều nhược điểm nầy đã có từ lúc đầu, chớ chẳng phải sau này, đến thời các môn đệ mới có.
Ban Cố cho rằng, trước thời Mặc Tử, đã có người xướng xuất ra học thuyết ấy rồi.
Trở lên việc phê phán 6 Môn phái, đều là ý của Tư mã Đàm, rồi chuyện tăng thêm 4 Môn phái : Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu thuyết gia, đều cũng có lời phê phán.
Ông đã viết : " Tung hoành gia là những người đi đó đi đây để làm quan ". Khổng Tử đã nói : " Đọc Kinh Thi 300 thiên, mà không thể đối đáp được thì đọc nhiều làm gì ? " Lại có nói : " Ôi chuyện đi sứ ". Là ý muốn nói gặp tình hình phải biết đối phó cho hợp, chỉ lãnh sứ mạng tổng quát mà không chi tiết, đó là chỗ sở trường.
Những kẻ tà lãnh nhiệm vụ ấy, thì dối trá mà bỏ mất lòng tin.
Còn phái Tạp gia thì xuất thân từ Nghị quan, kiêm Nho, Mặc hợp với Danh, Pháp gia, biết quốc thể là như thế, làm quan ra vào với vua chúa, đó là chỗ sở trường, rồi sau đó, đến những người không vững vàng tiếp tục Môn phái ấy thì lần lần bị mất chính thống.
Phái Nông gia thì xuất thân từ Nông quan, gieo trăm giống, khuyến khích việc nông tang, để cho có cơm ăn, áo mặc, cho nên trong Bát chánh có nói : Một là ăn, hai là hàng hóa...Khổng Tử có nói : " Chỗ trọng là cái ăn của dân ", đó là chỗ sở trường của Nông gia, nhưng lần lần kẻ thiển cận, cho rằng bực vương giả không có gì đáng trọng, muốn cho vua dân cùng đi cày, làm rối loạn trật tự trên dưới ".
Phái Tiểu thuyết gia xuất thân từ Ty quan, chuyên về nghe ngóng nói đi...nói lại. Khổng Tử có nói : " Tuy đó là tiểu đạo, nhưng cũng có chỗ khả quan, có thể đến những chỗ xa xôi. (Xem thiên Tử Trương trong sách Luận Ngữ) đó là chỗ người quân tử không làm nhưng cũng không thể bỏ. Những cái hiểu biết ở trong xóm làng cũng cần phải ghi nhớ cho đừng quên.
Về từ ngữ Tung hoành, thì bắt đầu từ thời Tô Tần, TrươngNghi, đó là những người trí trá, mất tín nghĩa, là những người tà.
Ban Cố cho rằng Tung hoành gia là những nhà ngoại giao, cho nên mới dẫn lời Khổng Tử về chuyện học Kinh Thi để đối đáp với kẻ khác.
Quân thần cùng đi cày, là muốn bỏ giai tầng thống trị và bị trị, đó là chủ trương của Hứa Hành (xem thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử), đó là đặc điểm của phái Nông gia.
Ban Cố cho rằng đó là thuyết của kẻ tầm thường, thế nên trong sách Hán Chí chỉ ghi lại sách chuyên về nghề trồng trọt.
Còn về phái Tiểu thuyết gia thì chỉ được ở phần Phụ Lục cho nên không bình luận sở trường hay sở đoản của phái này, nhưng chỉ nêu ra ý kiến là không thể bỏ được.
Trong phần đầu của phiên Tổng luận này có viết : " Trong 10 Môn phái chỉ có 9 là khả quan " tức là không có phái Tiểu thuyết gia. Trong Tổng luận cũng có viết : " Nếu trau dồi được Lục Nghệ, và đọc lời của 9 Môn phái, bỏ chỗ dở, dùng chỗ hay thì có thể thông được cái chước muôn phương ".
Trong khi bình luận Chư Tử, Ban Cố đã thiên vị, là vì ông nhận Nho gia là " cái đạo rất cao ", lấy lời nói của Nho gia làm khuôn mẫu để bình luận các Môn phái.
Thiên Thiên hạ của Trang Tử, thiên Phi thập nhị tử của Tuân Tử, và Tư mã Đàm với Ban Cố phê phán sở trường và sở đoãn của Chư Tử, đều đã được dẫn thuật ở trên. Tóm lại, trong tất cả 10 Môn phái, 5 phái sau không bằng 5 phái trước.
Chỗ dở của Âm dương gia, không phải chỉ ở chỗ " kiêng kị mê tín " mà lại có nhiều chỗ kiêng cữ, cứ tin quỉ thần mà bỏ chuyện người, tức là chỗ sở trường về lịch, trăng sao đó là kỹ thuật chớ không phải học thuyết triết học.
Phái Tung hoành là sách lược của chánh khách thời Chiến Quốc, lại càng không có liên quan gì đến học thuật.
Sách Hán Chí dẫn lục sách của Nông gia, cũng chỉ là những sách về kỹ thuật trồng tỉa, và những chánh lịnh về nông nghiệp mà chẳng có học thuyết gì. Như thế, chủ trương của Hứa Hành chỉ tiếp tục các học thuyết của Đạo gia mà thôi.
Về phần Tiểu thuyết gia thì sách Hán Chí chỉ ghi những bút ký và tạp văn của người đời sau, không xứng đáng tiêu biểu cho ngành Tiểu thuyết. Đời nay, ngành Tiểu thuyết chỉ được xem là bộ môn Văn học, chớ không phải là Triết học.
Còn về Tạp gia, thì gom góp học thuyết các Môn phái khác, không có một tôn chỉ nhứt định như vậy là không có một bản sắc riêng cho mình.
Bây giờ lại đem Danh học so sánh với 5 Môn phái trên, thì Danh học là một loại biện chứng của Nho gia mà các Môn phái khác đều có áp dụng, vì thế Danh gia đều về du thuyết, thì không có một học thuyết đặc biệt gì.
Pháp gia thành lập sau, có quan hệ đến Đạo gia, Nho gia. Thận Đáo là một Pháp gia ở vào thời kỳ đầu của Môn phái, học thuyết ông là thuyết Hình, danh của Hoàng Lão.
Trong sách Sử Ký ghi Thận, Hàn và Lão, Trang đồng một truyện vì cho rằng học thuyết của các ông ấy đều gốc của Hoàng, Lão, mà Hàn Phi, Lý Tư là đệ tử của Tuân Tử, như thế thì Pháp gia do Đạo gia, Nho gia hợp lại mà biến thành, nhận xét như thế cũng hợp lý.
Tóm lại, trong số 5 Môn phái kể trên có thể nói chỉ có Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, tổng cộng 3 phái là có thể nói có những điểm nổi bật riêng biệt mà thôi.
 
 
6. - Nguyên nhân của sự hưng thạnh và suy vi của bách gia chư tử
Học thuyết của Chư Tử hưng thạnh vào cuối thời Xuân Thu (551 trước T.L.) cho đến thời Chiến Quốc thì phát triển rất mạnh, rồi đến thời Tây Hán (206 trước T.L.) thì suy vi lần lần. Sự hưng thạnh và suy vi ấy đều có nguyên nhân, xét về bản thân của các ngành học thuyết ấy, đó là " Nhơn ", mà xét về hoàn cảnh của thời ấy, đó là " Duyên ". Sự vật phát sinh và tiêu diệt đều có cái " nhơn " nội tại, và cái " duyên " của ngoại giới (hoàn cảnh bên ngoài) ngành học thuật, tư tưởng, cũng không thoát khỏi thông lệ ấy.
Vì như loài cỏ cây, sở dĩ mọc mầm và lớn lên được, trước hết là nhờ hạt nẩy mầm, đó là cái " nhơn " nội tại, rồi kế đến là phải có đất nước, khí ấm mặt trời bên ngoài, tạo thành hoàn cảnh thuận tiện cho cái nhơn ấy nẩy nở và hoàn cảnh bên ngoài ấy gọi là " duyên ".
Sách Hán Thơ Nghệ văn Chí có viết : " Phái Nho gia, xuất thân từ quan Tư Đồ ". Phái Đạo gia xuất thân từ Sử quan ; phái Âm dương xuất thân từ quan Nghi, Hoà ; phái Pháp gia xuất thân từ Lý quan. Phái Danh gia xuất thân từ Lễ quan ; Mặc gia xuất thân từ chức quan giữ Thanh miếu ; Tung hoành gia xuất thân từ quan đi đó đi đây, Tạp gia xuất thân từ Nghị quan ; Nông gia xuất thân từ quan Nông tắc ; Tiểu thuyết gia thì xuất thân từ Ty quan, đó là thuyết Chư Tử xuất thân từ vua quan.
Hồ Thích có thuyết cho rằng Chư Tử không xuất thân từ vua quan, cho rằng sách Hán Chí nhận định sai, rồi Chương Bính Lân, Hồ Tiên Tiêu lại biện hộ cho sách Hán Chí.
Bình tâm mà xét, Hán Chí cứ cho rằng mỗi Chư Tử đều xuất thân từ một ngành quan lại, là một việc gượng ép. Như cho rằng Mặc gia xuất thân từ chức quan giữ Thanh miếu...cho rằng chủ trương tiết kiệm xuất phát từ hoàn cảnh nhà tranh vách đất, chuộng người hiền là do cách chọn hiền tài lúc ấy, và thờ kính tổ tiên là do việc cúng tế mà ra, v.v...Xét cho kỹ, nhận định như thế là cưỡng ép theo ý mình.
Chỗ phân biệt giữa các Môn phái, cho đến đời Tây Hán mới hoàn thành, mới xác định được một cách rõ ràng...rồi may mắn dưới thời cổ đại có 10 chức quan, cứ cho người của 10 Môn phái xuất thân từ đó, như thế là một điều nhận xét khá hời hợt.
Chức quan đâu phải có bấy nhiêu mà thôi, còn có Trủng Tể, Tông Bá, Tư Mã, Tư Khấu, Tư Không, v.v... tại sao các chức quan ấy lại không sản xuất ra một học phái nào cả ? Như thế chúng ta đã thấy rõ thuyết của Hán Chí là miễn cưỡng rồi.
Chương Bính Lân, căn cứ theo sách Lã thị Xuân Thu có viết câu " Lỗ Huệ Công hỏi việc lễ ở giao miếu... Hoàng Vương sai Sử giác đến... hậu duệ của ông nầy còn ở nước Lỗ, Mặc Tử có học... ". Như thế thì Mặc Tử xuất thân từ Thanh miếu cũng có thể là chuyện có thật, nhưng căn cứ vào đó để nói rằng nhờ đó mà mới có Mặc gia, thì e rằng không chắc.
Ngày xưa, chỉ có vua quan dạy học, chưa có thầy dạy tư, chưa có sách do tư nhân viết, đó là sự thật có chứng cớ.
Ở nước Trung Hoa, vào thời Thượng Cổ, từ đời nhà Ân trở về trước, đa số sử liệu đều không có gì là chắc chắn, nhưng nếu vì thế mà cho rằng từ thời nhà Ân trở về trước, không có văn hoá thì đó cũng là lời võ đoán.
Từ khi có sử trở về trước, cho tới lúc từ khi chưa có chữ, tất nhiên là đã có văn hoá. Từ thời Thượng Cổ đến đời nhà Châu, văn hoá Trung Hoa đã có một qui mô khá vững vàng.
Từ điển chương, chế độ, sử học, khoa học, nghệ thuật, đều có ở trong lớp quí tộc, và cũng tương đương phong phú. Cho nên Khổng Tử đã nói : " Nhà Châu đã noi gương hai đời trước nên văn vẻ sáng rỡ ! " (thiên Bát dật trong Luận Ngữ). Cái văn vẻ sáng rỡ dưới thời nhà Châu, đều nằm trong tầng lớp vua quan, đó là cái mầm cho học thuật của Chư Tử sau nầy, cho nên bảo rằng học thuyết của Chư Tử, xuất phát từ tầng lớp vua quan, thật ra cũng không có gì quá đáng, nhưng theo sách Hán Chí đã chép, mỗi Môn phái này đã xuất phát từ quan chức nọ, đó là điều không thật chính xác.
Ông Hồ Thích, trong quyển " Trung quốc cổ đại Triết học sử đại cương " đã viết : Lúc ấy nền chánh trị đã mờ mịt như thế, xã hội rối loạn như thế, giàu nghèo quá cách biệt
như thế, sự sống của dân chúng khổ sở như thế, trước những tình hình như vậy, tất nhiên phải có những tư tưởng phản ứng để mong cải tạo tình hình ".
Lương Khải Siêu cho rằng tình hình như vậy, xét trong lịch sử Trung quốc, thời đại nào cũng thường có, đối với việc phát sinh của nền Triết học cổ đại, tất nhiên không phải là không quan hệ, nhưng không phải vì thế mà quả quyết rằng vì có tình hình như thế mới phát sinh ra phong trào Triết học như vậy.
Lời nhận xét như thế thật là đúng, nhưng trong khi Lương Khải Siêu nêu ra mấy điểm cần chú ý, thì đó cũng là điều hậu thế vẫn thường thấy, cũng không thể lấy đó làm nguyên nhân cho việc phát sinh ra phong trào Triết học lúc đó.
Những thuyết của Hồ Thích và Lương Khải Siêu chỉ là cái " Duyên " phát sinh ra học thuyết của Chư Tử, nhưng không thể nói đó là những điều trọng yếu.
Nước Trung Hoa, từ khi có sử cho đến nay, tính ra có hai thời kỳ biến động thật dữ dội :
Thời kỳ thứ nhứt, bắt đầu từ thời Xuân Thu đến thời Hán sơ.
Thời kỳ thứ hai, bắt đầu từ giữa đời nhà Thanh cho đến lúc gần đây.
Thời kỳ biến động sau, xảy ra lúc gần đây, nhằm lúc thời đại bế quan thay đổi thành thời đại toàn thế giới giao thông (từ phong kiến bước sang tư bản với chủ trương tự do mậu dịch, tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá).
Nói theo sách vở thông thường, thì từ nền chánh trị quân chủ chuyên chế, biến thành nền chánh trị dân chủ cộng hoà... Và từ xã hôïi thuần tuý nông nghiệp và thủ công nghiệp biến thành xã hội công nghiệp cơ khí. Từ nền thương nghiệp quốc nội, biến thành nền thương nghệp mậu dịch quốc tế. Từ nền giáo dục khoa cử, biến thành một nền giáo dục nhà trường thực tiễn. Nói chung, từ quốc gia, xã hội, gia đình, cá nhân, tất cả những điều khác như : chánh trị, kinh tế, văn hoá cho đến sinh hoạt, tư tưởng, cũng đều có những biến hoá dữ dội. Và cho đến ngày nay, cũng còn đang trên đà biến đổi chưa ngừng, đó là điều mà chính mắt chúng ta đang thấy, và thân mình cũng đang bị lôi cuốn trong tình hình đó.
Lần biến đổi dữ dội trước đây đã thay đổi hoàn toàn cơ cấu vật chất và tinh thần của xã hội, cũng giống như lần thay đổi ngày nay.
Dù cho quốc gia, dân tộc nào, ban đầu cũng đều phải trải qua thời kỳ bộ lạc, chế độ tù trưởng. Ở Trung Hoa, từ thời nước Tần trở về trước, các nước gọi là ở trong chế độ phong kiến, thật ra đó chỉ là hình thức của chế độ bộ lạc. Cái gọi là chư hầu đều là tù trưởng biến tướng, còn thiên tử chỉ là lãnh tụ của tù trưởng các bộ lạc. Thời Tam đại các vì vua nối tiếp nhau cũng chẳng qua là tù trưởng của bộ lạc này, đoạt được quyền lãnh tụ của tù trưởng bộ lạc khác mà thôi. Vì thế nhà Hạ mất mà Kỷ còn, Thương mất mà Tống còn, là chỉ mất cái địa vị lãnh đạo, còn địa vị tù trưởng của mình cũng còn như trước.
Lãnh tụ các bộ lạc cha truyền con nối, tù trưởng của mỗi bộ lạc cũng cha truyền con nối, tay chân của tù trưởng cũng cha truyền con nối, thỉnh thoảng có những lãnh tụ mới nổi lên, cắt đất để phong con, cháu, công thần làm chư hầu, thì phong địa cũng được cha truyền con nối (thế tập) đời đời được giữ đất đai ấy, thì cũng được đồng hàng với các chư hầâu đã có từ trước.
Đó là thực tế tình hình của chế độ phong kiến thời cổ đại. Đến thời Xuân Thu ; các nước mạnh yếu không giống nhau, vì thế lần lần có hiện tượng thôn tính lẫn nhau, và vì thế lần lần chế độ phong kiến bị tan rã.
Đến thời Chiến Quốc, số nước còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, đến lúc nhà Tần gồm thâu 6 nước, và quét sạch luôn hình thức bộ lạc của các nước. Nhưng nhà Tần không đứng vững được lâu, Tần mất, hậu duệ của Lục quốc nổi lên. Sau khi Hán Cao Tổ xưng Đế, ông phong đất cho công thần có người khác họ, và cũng phong cho tử đệ trong dòng.
Đến thời Cảnh Đế, còn 7 nước, các Chư hầu không còn thực quyền, rồi đa số vì lầm lỗi mà mất nước. Đó là chế độ phong kiến như sống lại dưới thời đầu Tây Hán, nhưng đó là ánh đèn sắp tắt còn bừng lên lần chót, chỉ trong giây lát rồi tắt luôn.
Kế đó là chế độ quí tộc hưng thạnh, nhưng đến thời Xuân Thu cũng bắt đầu tan rã.
Trong Kinh Thi có mấy bài Thức vi, Lê hầu ở Tả truyện, vào năm thứ 3 đời Chiêu Công có : Khước, Tư, Nguyên, Hồ, Tuc,ï Khánh, Bá bị giáng chức... Trong số ấy có họ Khổng, khi ở nước Tống, gia đình thuộc hàng quí tộc, nhưng khi dời qua nước Lỗ thì thành lớp bình dân, trường hợp như thế rất nhiều.
Nịnh Thích chăn trâu mà làm quan ở nước Tề, Bá Lý Hề là nô lệ mà làm quan ở Tần, Khổng Tử là lớp bình dân áo vải mà làm quan Tư Khấu ở Lỗ, những lớp hiền tài trong lớp bình dân lần lần được tham gia vào việc chánh.
Cho đến thời Chiến Quốc, Phạm Thư, Trương Nghi, Lý Tư, rồi Tôn Tẩn, Bạch Khởi, Nhạc Nghị... từ lớp bình dân áo vải lên làm tướng cũng có nhiều.
Đến thời Lưu Bang, một người tầm thường lên làm Thiên Tử, các công thần như Tiêu Hà, Hàn Tín, Kinh Bố, Phàn Khoái, đa số cũng đều thuộc lớp người tầm thường. Vì thế mà chế độ chuyên chính quí tộïc cha truyền con nối bị tiêu diệt, đó là một biến đổi lớn lao về phương diện chánh trị.
Các quan Khanh, Đại Phu dưới thời Cổ đại, chẳng những là chủ nhân ông về phương diện chánh trị trong địa phương mình, mà về phương diện kinh tế cũng là đại địa chủ, còn giới bình dân chỉ là nông nô, trong đoạn trước đã có nói qua.
Cho đến thời Thương Ưởng, bày ra phép tỉnh điền, đắp bờ ngang dọc, chế độ nhà vua lần lần bị mất và giới bình dân có nhiều người trở nên giàu có. (Xem thiên Thực hoá chí trong sách Hán thư).
Thật ra, chẳng phải từ dưới đời nhà Tần, Thương Ưởng biến pháp rồi mới xảy ra tình trạng ấy. Trong Kinh Thi có chép " con cháu bình dân mặc áo cừu, con cháu thứ dân làm trăm quan ".
Con cháu thứ dân làm trăm quan, tức là ở phần trước có viết giới bình dân cũng có thể làm quan.
Con cháu bình dân mặc áo cừu, đó là hiện tượng giới bình dân giàu có một cách mau chóng, mà thương nghiệp hưng thạnh cũng xãy ra dưới thời Xuân Thu... như Huyền Cao là một thương nhơn mà đẩy lui quân Tần. Lã Bất Vi là một tay buôn bán mà làm thừa tướng nước Tần, như thế là kẻ buôn bán đã bước chân vào nền chánh trị.
Thiên " Thực hoá chí có viết : " Đến lúc nhà Châu suy, sĩ thứ nhơn, không ai không bỏ khuôn phép cũ và rời căn bổn vì thế dân cày cấy ít, mà buôn bán thì nhiều, kẻ thì sống sang trọng, chó ngựa dư thức ăn ".
Từ khi thương nghiệp hưng thạnh, kẻ giàu thì càng giàu thêm, vì thế giai tầng tư sản nổi lên thay thế cho giai tầng quí tộc, đó là điều thay đổi lớn lao trên phương diện kinh tế.
Phần trên đã nói về việc dùng dao khắc trên thẻ tre viết sách, rồi lần lần tiến lên biết dùng bút, mực viết trên vải lụa, từ nền quan học tiến sang có thầy dạy tư, do quan thơ tiến lần đến chỗ tư nhơn sáng tác, đó cũng là điều thay đổi lớn lao trong ngành học thuật có liên quan mật thiết đến văn hoá giáo dục.
Hồ Thích có viết : " Nền chánh trị đen tối, xã hội rối loạn, giàu nghèo quá cách biệt, đời sống dân khổ sở, đó là hiện tượng của hoàn cảnh xã hội đương thời với những " Nhơn Duyên " như thế mà học thuyết của Chư Tử phát sanh.
Học thuyết của Chư Tử suy vi, một số người đổ lỗi cho Tần Thủy Hoàng đã cấm và đốt sách Thi, Thơ và Bách Gia... Thật ra, nhà Tần đốt sách vở là sách của dân gian, chớ không đốt sách ở quan phủ.
Trong lịnh đốt sách có viết rõ : " Không phải là Bác sĩ quan chức, người nào có chứa Thi, Thơ và sách Bách Gia, đều phải đem ra đốt... " như thế thì Thi, Thơ, sách Bách Gia của Bác sĩ và quan chức không có nằm trong lịnh bị thiêu hủy, đó là điều rất rõ ràng.
Vì thế, trong chức Bác sĩ dưới thời Tần, có nhiều nhà học giả, trong quyển " Hán, Ngụy Bác sĩ khảo ông Vương Quốc duy có viết rõ điều này.
Hơn nữa, nhà Tần rất ngắn ngủi, từ khi hạ lịnh đốt sách, cho đến khi Hán Cao Tổ vào kinh đô, thời gian chỉ có 4, 5 năm, các sách vở trải qua nạn lửa ấy, đến thời nhà Hán lại sống lại rất nhiều, như thế thì Chư Tử đâu đến nổi phải bị diệt mất ?
Hơn nữa, từ xưa đến nay, dùng lực lượng chánh trị để tiêu diệt sách vở, ức chế tư tưởng, không bao giờ có hiệu quả cả, và nhà Tần cũng không thoát khỏi thông lệ đó.
Nhà Tần đốt sách thật ra cũng có ảnh hưởng đến việc phát triển học thuật, có hại đến tự do ngôn luận, tư tưởng, nhưng không thể vì chuyện ấy mà làm cho học thuyết của Chư Tử phải bị suy vi.
Trong " Đối sách ", Đổng Trọng Thư đã viết : " Thuyết Đại nhứt Thống trong kinh Xuân Thư, đó là phép thường của trời đất là thông nghị cổ kim, nếu bây giờ theo dị đạo, dị nhơn luận, theo thuyết lạ của Bách Gia, ý chí không đồng, thì trên không thể giữ được sự nhứt thống, nền cai trị biến đổi mà dưới thì không phải giữ điều kiện gì, thần ngu, không nghĩ đến Lục Nghệ, học thuật của Khổng Tử bị mất mà không tiến được.
Nếu đạo tà tịch bị diệt, thì mới duy trì được nhứt thống, mà pháp độ mới sáng tỏ, dân mới biết phải theo đâu. (Xem thiên Bản truyện trong Hán thơ).
Cũng có kẻ cho rằng, học thuyết của Chư Tử bị suy vi, là do Hán Võ Đế, bãi truất Bách Gia, độc tôn Nho gia, nhưng Đổng Trọng Thư bảo rằng : " Tuyệt cái đạo " ấy là muốn không cho các phái khác cùng tiến, chớ không có ý tiêu diệt các phái khác, đó là chủ trương rõ ràng của Đổng Trọng Thư có ghi chép trong sách vở.
Cũng trong bản truyện, phần sau thấy có chép : " Đối sách của Trọng Thư là suy minh Khổng Thị, ức truất Bách Gia lập ra quan học liệu, ở châu, quận thì cử Mậu Tài, Hiếu Liêm... ". Như thế, chúng ta đâu có thấy bằng chứng gì nhơn đối sách của Đổng Trọng Thư mà Hán Võ Đế hạ chiếu cấm tuyệt Bác Gia.
Trích những lời trong " đối sách ", chúng ta đã thấy rõ, không phải vì Hán Võ Đế mà Học thuyết Bách Gia Chư Tử bị suy vi.
Bách Gia Chư Tử suy vi có nhơn và duyên...Nhơn là bản thân học thuyết của Chư Tử bị biến hóa, Âm dương gia lo chuyện quỉ thần mà bỏ chuyện người. Trâu Viễn lại có thuyết " Đại Cửu Châu ", gặp lúc Tần Thủy Hoàng và Hán Võ Đế đều muốn tìm thuật Trường sanh, vì thế từ thuyết quỉ thần, Âm dương gia lại chuyển sang thuyết thần tiên. Từ thuyết Đại Cửu Châu biến thành thuyết Hải ngoại tam thần tiên, như thế mà trở thành những người phương sĩ.
Phương sĩ đã thạnh, Nho gia liền hỗn hợp vào đó mà thành những thuyết hoang đường (Như thuyết của Đổng Trọng Thư cầu mưa, cầu nắng, Dịch học của Cảnh Phòng nói về chuyện tai nạn lạ lùng...)
Đến cuối thời Tây Hán, loại Vĩ thơ xuất hiện, mà Nho học thay đổi lớn (trong chương : Luận về Nho gia và Phương sĩ tổng hợp, trong quyển Trung quốc lịch sử, Hạ Tăng Hựu viết về điều này rất rõ ràng).
Rồi Đạo gia lại hỗn hợp với Phương sĩ, và Lão, Trang, Liệt Tử đều biến thành tiên. Đến cuối đời Đông Hán, Đạo giáo ra đời, mà Lão Tử nghiễm nhiên thành một Giáo tổ.
Về Nho gia, ngoài ra việc hỗn hợp với Phương sĩ, lại biến thành cái học chương, cú, huấn hổ mất tất cả tinh túy. Mặc gia thì lại thiên về hành vi thực tế, chẳng trọng lý luận, vì thế sáng tác rất ít.
Mặc Tử có tinh thần chịu đựng gian khổ để làm lợi cho thiên hạ, vì thế mà lần lần đi dến chỗ hiệp nghĩa hy sinh mình trong việc giao thiệp bè bạn, báo ơn, báo oán, cho nên học thuyết ấy lần lần suy vi, không có người tiếp tục.
Phái Du thuyết dưới thời Tần, Hán vì sau đó không có đất dụng võ nên lần lần bị mất, những người trong phái Tung hoành biến thành những nhà giàu, ngồi không thu hoa lợi, rồi vua tôi cách biệt nhau ngày một nhiều thêm, có gặp nhau chỉ bằng thư từ, lời sớ... rồi cũng vì đó mà phái Danh gia, sở trường về biện luận cũng bị suy vi luôn.
Phái Nông gia chỉ có sách vở về nghề nông và những chủ trương chánh sách về nông nghiệp, Tiểu thuyết gia thì chỉ chuyên sáng tác ngoại sử, bút ký...
Dưới thời nhà Hán, chỉ còn có 3 phái Nho, Pháp và Tạp gia là còn sáng tác mà thôi. Dưới thời nhà Hán, nền học thuật lần lần chuyển sang nền kinh học, còn ngành văn học thì thiên về lối Phú. Đó là bản thân của học thuật bị chuyển biến.
Từ thời Xuân Thu, nền kinh tế, chánh trị bắt đầu chuyển biến mạnh cho đến đời Tây Hán thì lần lần đình chỉ lại được. Lúc đó chế độ phong kiến và chế độ quí tộc đã hoàn toàn tan rã. Xã hội và nhân sĩ cũng đã yên ổn trong chế độ kinh tế mới vừa gầy dựng.
Sách Thực hoá chí có viết : " Biên chép môn hộ, xem dân bình đẳng, tuy là đày tớ hay nô lệ cũng không có gì hổ thẹn ". Cho đến bực đày tớ và nô lệ mà không có gì hổ thẹn thì cuộc sống đã yên ổn như bình thường rồi.
Tuy dưới thời nhà Hán vẫn còn thi hành chánh sách trọng nông, kiềm chế thương nghiệp, nhưng đối với tình hình kinh tế mới lúc bấy giờ, chưa bị lung lay về căn bản, đó là hoàn cảnh chung về kinh tế và chánh trị lúc ấy.
Hơn nữa nhà Hán đã thống nhứt, lần lần chánh trị được trong sáng, trật tự được ổn định, vua Võ Đế lại có chánh sách dùng người hiền, đề xướng học thuật kinh sử, dùng lợi lộc để lôi kéo kẻ có tài, nền học phong phú không có gì thay đổi, cũng nhờ nhà cầm quyền nhúng tay vào, điều đó cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến việc suy vi của Học thuyết Chư Tử.
Phần Hai 
*
Thân thế Bách Gia Chư Tử

1. Khổng Tử
1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử.
Gần đây, học giả Hạ Tăng Hựu có viết : " Các sách của Chư Tử, ở nước Trung Hoa, từ xưa cho đến nay là những thiên chính luận rất tinh vi, rất thâm thuý về phương diện triết học, về phương diện văn chương. Đó là những áng văn rất đẹp, cho đến trăm đời sau, nghiên cứu cũng không sao cùng tận được. (Xem trong quyển Trung Quốc sử). Thế nên một số học giả cho rằng Chư Tử là những cổ thư cần đọc, vì Chư Tử có thể đứng ngang hàng với Kinh và Sử.
Mạnh Tử có nói : " Đọc thi, thơ là muốn biết người ấy như thế nào, luận đời người ấy như thế nào... Đọc những cuốn sách của Chư Tử là cũng muốn biết những người ấy, luận đời ấy...
Chư Tử viết sách, lập học thuyết là muốn cải tiến chế độ, cứu đời. Như thế thì tư tưởng học thuyết của những người ấy rất có quan hệ với hoàn cảnh, xã hội đương thời, thế nên trước hết phải biết những người ấy, luận đến đời ấy rồi sau đó mới đọc những sách của người ấy.
Sách Hàn Chí ghi các tác phẩm của Chư Tử rất nhiều, có những loại rõ ràng là do người đời sau viết mà ghi là của cổ nhân, như các loại sách của Thần Nông, Hoàng Đế chẳng hạn, có những loại của người đời sau ghi chép của người đời trước đề tên như sách của Quản Tử, Án Tử, có những loại sách đã mất mát, không thể tìm đâu để làm bằng chứng được, như các loại sách của phái Âm dương và Tiểu thuyết.
Cũng có loại sách ghi tên người này người nọ, nhưng thật ra là của môn khách viết, như các loại sách Lữ Lãm, Hoài Nam v.v... Có loại sách đã mất rồi lại xuất hiện, đó là loại giả, như dưới thời nhà Minh có loại Mạnh Tử ngoại thơ chẳng hạn.
Trong phần lược khảo về thân thế của Chư Tử nầy, chúng tôi dùng những tài liệu có thể minh chứng được, hoặc có những chỗ mơ hồ, nhưng cũng căn cứ vào những tài liệu có thể tin được, những tài liệu nào không đáng tin thì bỏ, đó là điều cần thiết khi tìm hiểu các nhân vật thời xưa...
Chúng tôi cố gắng tránh những lỗi lầm thấy đâu chép đó, hay là nhận định một cách võ đoán. Chỗ nào chưa biết rõ, thì cứ để là chưa hiểu, thế nên thà là sơ lược mà còn hơn là dài dòng để phạm những sai lầm thất thiệt.
Cổ sử là tài liệu duy nhứt có thể căn cứ vào đó để tìm hiểu thân thế Chư Tử một cách đáng tin cậy.
Trong phần nầy, khi tìm hiểu thân thế Chư Tử, về phần các nhân vật trọng yếu thì theo sách Sử Ký, thêm vào đó những tài liệu có thể chứng minh được, nếu những nhân vật nào đó không có chép trong Sử Ký, thì sưu tập trong các sách khác có thể tin được, rồi tóm lại, có khi một nhân vật chép thành một chương, có khi một chương lại gom nhiều nhân vật, tuỳ theo sự quan trọng của mỗi nhân vật trong môn phái.
 
1. - Thân thế Khổng Tử
Phần trên đã nói, thời ấy đệ tử gọi thầy là " tử " và bắt đầu từ thời Khổng Tử.
Đệ tử ghi chép lời thầy thành sách, và lập nên việc sáng tác của tư nhân cũng bắt đầu từ pho Luận Ngữ, thế nên trong Chư Tử, Khổng Tử được kể là nhân vật thứ nhứt, và sách của Chư Tử pho Luận Ngữ được kể là pho sách thứ nhứt.
Từ thời Khổng Tử trở về trước, chỉ có quan học mà không có thầy tư nhân, chỉ có quan thơ mà không có sách do tư nhân sáng tác.
Khổng Tử đã mở phong trào tư nhân dạy học, tư nhân sáng tác, chẳng những đã thành tôn sư của Nho gia, mà còn là người mở đầu cho Chư Tử, mở một kỷ nguyên mới về giáo dục và học thuật cho nước Trung Hoa, trở thành một học giả không tiền trong lịch sử, cho nên trong phần nầy, kể ông là nhân vật đầu tiên, đứng trước tất cả Chư Tử.
Khổng Tử đã từng tham chánh ở nước Lỗ, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn rồi đi châu du các nước, bất đắc chí với chư hầu sau cùng trở về nước Lỗ, sống trong cảnh áo vải cho đến già.
Thế nên lúc đó ông liên hệ rất ít đến chánh trị, nhưng lại dạy học, viết sách. Nhờ đó mà mở đường cho Chư Tử sau nầy...cho nên ảnh hưởng của ông rất lớn đối với nền giáo dục, học thuật của đời sau.
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết Nho gia rất thạnh ở thời kỳ đầu thời Chiến quốc, đầu đời Hán Cao Tổ, Khổng Tử rất được sùng bái, và cũng bắt đầu từ thời ấy, Khổng Tử được các bậc Đế Vương sùng bái.
Sau đó Văn đế lại thích Hoàng Lão, Cảnh đế thích Hình, Danh gia, ít khi tôn sùng Nho gia, cho đến đời Võ đế, Khổng Tử mới được đặc biệt sùng thượng và cũng từ đó Nho gia được độc tôn.
Từ đó trở đi, trải qua các đời như Đường Huyền Tôn, truy phong Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, Tống Chơn Tôn truy phong thêm là Nguyên Thánh Văn Tuyên Vương rồi Đại thành chí Thánh Văn Tuyên Vương, Văn miếu được thiết lập khắp các nơi trong nước, lễ tế rất long trọng, cho đến đời Minh, Thanh vẫn không suy giảm.
Các học giả, bất câu dưới thời Hán, Tống, vô luận cổ văn hay kim văn, dù là Trình Chu hay là Lục, Vương cũng đều xem Khổng Tử như là khai tổ.
Đầu năm Trung Hoa Dân Quốc, Viên Thế Khải dùng chánh sách tôn Khổng Tử và Khang Hữu Vi muốn dùng Khổng giáo làm quốc giáo.
Cho đến lúc chế độ vua quan suy vi, các học giả cho rằng Khổng Tử là người bảo vệ cho chế độ chuyên chế nên nổi lên phản đối.
Bình tâm phê phán, đối với bản thân của Khổng Tử, thì đó là một nhân vật đáng tôn kính vì thế mà trải qua nhiều đời, ông được sùng thượng, còn học thuyết của ông có được tôn sùng mãi mãi không đó là một vấn đề khác.
Tư Mã Đàm khi bình luận 6 học phái, rất đặc biệt sùng thượng " Đạo đức ", Tư Mã Thiên viết sử ký thì độc tôn Khổng Tử, có lẽ vì thời đại của hai cha con có khác nhau, vì phong trào mỗi lúc nên mới có sự khác biệt, mỗi người có mỗi tư tưởng riêng không thể cưỡng ép cho đồng được.
Sách Sử Ký sắp xếp thiên Bổn Kỷ chuyên ghi các vì Đế Vương, Thế gia thì ghi chư hầu, Liệt truyện thì các nhân vật khác.
Khổng Tử là dân áo vải nhưng lại được đặc biệt đứng vào hàng thế gia, là cố ý muốn suy tôn. Vương An Thạch trong thiên Khổng Tử Thế gia nghị đã phê phán " Tự làm loại cái lệ, tới lui mất chỗ đứng ".
Vương Ứng Lân trong sách Khổng học ký văn, dẫn lời của Lý thị viết " Muốn tôn Đại Thánh Nhơn mà trái lại làm cho thấp ".
Xét ra, việc viết sử, bắt đầu từ quyển Sử Ký, xét kỹ theo lệ, lấy thiên Bổn Kỷ làm giềng mối cho toàn quyển sách để biểu thị trung tâm chánh trị đương thời ở chỗ nào, cho nên không chỉ hạn nơi việc ghi các vị Đế vương mà thôi.
Như dưới thời Chiến quốc, Tần chưa thống nhứt, Hạng vương chưa là thiên tử, mà trên thực tế, lúc đó đã thành trung tâm chánh trị cho nên lập Hạng Võ Bản Kỷ (có kẻ cho rằng, Thái Sử Công lập Hạng Võ Bản Kỷ là tôn Hạng Võ, truất Lưu Bang, đó là chỉ là ức thuyết, gần đây lại có người cho rằng Thái Sử Công muốn tôn cuộc cách mạng của bình dân, lại càng không đúng).
Khổng Tử không phải là người trung tâm chánh trị của lúc cuối thời Xuân Thu, cho nên không lập Bản Kỷ cho ông...
Chư hầu gọi là thế gia, là tử tôn thế tập (cha truyền con nối). Trong đoạn chót của Khổng Tư thế gia, có ghi con cháu của Khổng Tử truyền được học thuyết của ông một cách rõ ràng.
Chẳng những con cháu của Khổng Tử, mà các Nho gia hậu học, từ Nhan, Tăng, Du, Hạ và các môn đệ khác, đến Mạnh Tử, Tuân Tử và chư nho dưới thời Tây Hán đa số đều noi theo Khổng Tử.
Cho đến Mặc Tử, Trang Tử, mặc dầu học thuyết của những người nầy trái ngược hẳn với Khổng Tử, nhưng xét cho kỹ, cũng thừa hưởng được của Khổng Tử mà dựng nên học thuyết của mình.
Con cháu của chư hầu thế tập chức vị, đất đai mà được phú quí, còn con cháu của Khổng Tử cùng các môn đệ đời đời truyền học thuyết của ông, đời đời giữ những lời nói của bậc tôn sư, lấy học thuyết làm vinh cho gia đình, như thế là cũng không khác gì con cháu chư hầu được thế tập chức tước, điền thổ, đúng như lời nhà học giả Vương Minh Thạnh đã nói " suy tôn rất đúng, châm chước rất hay ".
 
KHỔNG TỬ
Trích trong Đại Cương Triết Học Trung Quốc của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (trang 161 quyển Thượng). (Theo Grand Larousse Encyclopédique)
Thân thế Khổng Tử.
Phần nầy chúng tôi xin chép lại thiên Khổng Tử thế gia khảo trong sách Sử Ký, thêm phần chú thích cho bạn đọc dễ nhận xét. Vì trong Sử Ký có những đoạn người đời sau thêm vào hay chép những câu sắp lầm lẫn nên chúng tôi đóng dấu ngoặc cho bạn đọc dễ nhận.
Khổng Tử sanh ở nước Lỗ, làng Xương Bình, ấp Trâu.
(Ấp Trâu, tức nay là Trâu thành về phía Đông Nam, tỉnh Sơn Đông, huyện Khúc Phụ. Xương Bình sơn hiện nay ở phía Đông Nam, cách huyện Khúc Phụ 15 dặm. Khổng Tử sanh ở ấp Trâu lớn lên dời đến ở xóm Khuyết Lý trong thành Khúc Phụ).
Trước tiên, ông là người nước Tống, trước hết Khổng Phòng Thúc hạ sanh Bá Hạ, Bá Hạ sanh Thúc Lương Ngột. (Ngày sanh của Khổng Tử là ngày 27 tháng 8 theo ngày tháng của âm lịch ; Ngày ấy cũng là ngày Tết của các thầy giáo Trung Hoa vì Khổng Tử là người đầu tiên dạy học tư nhơn.)
Lúc còn nhỏ Khổng Tử rất thích chơi đùa, thường bày cái trở, cái đậu, y như là cúng kiến...
Rồi mẹ Khổng Tử chết, người đất Trâu chỉ chỗ mộ phụ thân ông, ông liền đem mẹ đến hợp táng ở đất Phòng. Đất Phòng ở tại phía Đông nước Lỗ.
Quí thị mời kẻ sĩ, Khổng Tử đến, Dương Hổ chê, bảo " Quí thị mời kẻ sĩ nhưng không dám mời nhà ngươi đâu ! "Vì thế Khổng Tử lui.
Lúc đó, Khổng Tử mới 17 tuổi. (Lúc đó Khổng Tử chỉ mới 17 tuổi, chưa có thanh danh cho nên bị Dương Hổ chê).
Giả Đạt cho rằng lúc đó Khổng Tử đã 35 tuổi là sai lầm.
Lỗ đại phu là Mạnh Ly Tử, bịnh gần chết, dặn con là Ý Tử : " Khổng Khâu là hậu duệ của Thánh nhơn, bị diệt ở nước Tống, Tổ phụ ông là Phất Phủ Hà là dòng dõi nước Tống, mà nhường cho Lệ Công, cho đến đời phụ thân ông ấy, phụ giúp cho Đới, Võ và Tuyên Công, giúp cả 3 đời mà vẫn luôn luôn cung kính ".
Ta nghe con cháu của Thánh nhơn, tuy chẳng có tiếng đời nay, nhưng thế nào cũng có ngày đạt, bây giờ Khổng Tử tuy còn nhỏ mà ham lễ, thì thế nào người ấy cũng đạt, nếu ta chết, con phải thờ người ấy làm thầy.
Khi Ly Tử chết, Ý Tử và người nước Lỗ tên Nam cung Kỉnh Thúc, đến học lễ với Khổng Tử.
Năm ấy, Quí Võ Tử mất, Bình Tử lên thế vị.
*
Khổng Tử nghèo và hèn, đến khi lớn thường làm Ủy lại, đong lường đầy đủ, làm tư chức lại thì gia súc no đủ... Rồi từ đó làm chức Tư Không.
Rồi ông rời nước Lỗ, ở nước Tề không được ông lại ra đi, ông lại rời nước Tống, Vệ, rồi lại bị khổn ở giữa hai nước Trần, Thái... vì thế ông trở về Lỗ.
Khổng Tử cao 9 thước 6 tấc, người đều cho ông là người cao lớn và cho là lạ.
(Nước Lỗ tiếp đãi tử tế, ông mới trở về Lỗ.)
Chức Ủy lại là coi giữ kho, cho nên mới nói đong lường đủ và sổ sách đàng hoàng. Làm Tư lại, tức là xem việc nuôi trâu, dê để cúng tế.
Đoạn văn trên có chỗ lầm lẫn : " Mấy chữ : rồi từ đó làm chức Tư không phải để phía sau đoạn : ông mới trở về nước Lỗ ".
Ông Khổng Tử lúc 20 tuổi, mới bắt đầu ra làm quan ở nước Lỗ, với chức Ủy lại, năm 21 tuổi làm Thừa điền.
Họ Khổng, khi ở nước Tống, thuộc dòng quí tộc, khi chạy sang nước Lỗ, trở thành bình dân, từ lúc nhỏ, ông đã mồ côi cha, cho nên nghèo hèn, cho nên khi lớn lên, vì nghèo mà phải đi làm quan với chức Ủy lại, Tư chức lại. Mạnh Tử đã gọi " bực thứ nhơn đi làm quan " là như thế.
Nam cung Kỉnh Thúc tâu với vua Lỗ " xin cho Khổng Tử đi qua nhà Châu. Vua Lỗ liền cho một chiếc xe 2 ngựa.
Đến nhà Châu, Khổng Tử ra mắt Lão Tử.
Đến lúc ra về, Lão Tử đưa mà bảo rằng : " Tôi nghe kẻ giàu sang đưa người dùng tiền của, người nhơn đưa tiễn người thì bằng lời nói... " Tôi không giàu sang, lạm dụng mình là người nhơn, đưa ông có mấy lời : " Thông minh, xét nét kỹ thì gần với cái chết...vì ưa bàn luận người khác, biện bác rộng rãi thì nguy đến thân mình, vì nêu lên cái dở của người...kẻ làm người không nên nghĩ đến mình, làm tôi người, thì cũng không nên nghĩ về mình. "
Khổng Tử từ nhà Châu trở về nước Lỗ, học trò lại càng tiến thêm.
[Chuyện Khổng Tử qua nhà Châu ra mắt Lão Tử, thấy có chép trong quyển Lão Trang Thân Hàn truyện và Gia Ngữ Quan Châu giải.]
Trong thiên Thiên đạo, sách Trang Tử có viết : Khổng Tử muốn qua phương Tây, xem sách ở nhà Châu. Tử Lộ thưa : " Lộ nầy nghe nhà Châu có người giữ kho sách là Lão Đam, thôi làm quan, về nhà ở ẩn...thầy muốn xem sách thì hãy đến thử xem ".
Khổng Tử đáp : " Hay lắm ". Liền qua ra mắt Lão Đam mà Lão Đam không cho.
Trong sách Lão Tử truyện có viết : Lão Tử là người nước Sở, nếu đã bãi chức thì về quê ở Sở, đâu còn làm quan giữ kho sách ở nhà Châu.
Cũng có người cho rằng, Khổng Tử đến gặp Lão Đam, nhờ giới thiệu đến xem sách, nhưng Lão Đam không đồng ý. Như thế thì Khổng Tử chỉ có mục đích đi xem sách, chớ không phải đi gặp Lão Tử.
Trong sách Sử Ký có ghi rõ rằng : Khổng Tử qua nhà Châu xem sách, và ra mắt Lão Đam, khác hẳn với lời nói trong sách Trang Tử. Trang Tử thuộc phái Đạo gia, giả sử như Khổng Tử có đến tìm Lão Tử để hỏi về việc Lễ, tất nhiên là Trang Tử phải ghi rõ ràng, đó là chỗ còn nghi ngờ.
Hơn nữa, giọng nói của Lão Tử rất đáng nghi ngờ, có lẽ do người đời sau (thuộc phái Đạo gia) thêm vào để đề cao Lão Tử.
Về việc Khổng Tử đến nhà Châu vào lúc mấy tuổi thì chưa có tài liệu nào dám tin được, có sách ghi lúc đó ông mới 17 tuổi.
Khổng Tử là người ham học, có lẽ lúc đó ông đã học được rất nhiều sách rồi mà vẫn còn chưa cho là đủ, nên muốn đi thật xa, đến nhà Đông Châu, để xem kho sách của vua, chúa.
Việc ấy xảy ra năm nào thật khó xác định, đành chịu khuyết nghi. Nhưng theo sự ước đoán thì lúc ấy ông đã gắng công học tập được một thời gian khá lâu, có lẽ vào lúc tuổi " tam thập nhị lập ".
Khi xem sách xong trở về, ông càng tiến bộ hơn, đệ tử đến nhiều hơn, có nhiều thanh danh hơn trước nên được nước Lỗ dùng.
Lúc ấy, ở nước Tấn (vua Bình Công dâm) quan Lục Khanh chuyên quyền, phía Đông đánh các chư hầu.
Vua Sở (Linh vương) binh mạnh lấn lướt trung ương. Nước Tề lớn mà gần Lỗ, nước Lỗ nhỏ yếu, nếu theo Sở thì Tấn giận, còn theo Tấn thì Sở đến đánh, nếu không đề phòng Tề, thì Tề cũng xâm Lỗ.
Năm Lỗ Chiêu Công thứ 20, lúc đó Khổng Tử được 30 tuổi.
Tề Cảnh Công và Án Anh đến nước Lỗ, Cảnh Công hỏi Khổng Tử : " Ngày xưa Tần Mục Công nước nhỏ, ở nơi hẻo lánh, mà nên nghiệp bá tại sao vậy ? "
Khổng Tử  đáp : " Nước Tần tuy nhỏ, nhưng chí lớn, ở chỗ tuy hẻo lánh, nhưng việc làm ngay thẳng, biết dùng người hiền tài, như vậy có thể làm đến bực đế vương, chỉ mới làm nên nghiệp bá là còn nhỏ vậy ".
(Theo sách Tề thế gia ký thì Cảnh Công với Án Tử đi săn gần biên giới nước Lỗ, nhơn đó vào nước Lỗ luôn, liền hỏi " lễ " với Khổng Tử.
Trong sách Xuân Thu không thấy có ghi chép chuyện nầy, hơn nữa lúc đó Khổng Tử  ở nước Lỗ chưa có tiếng tăm gì, làm sao vua nước láng giềng đến hỏi lễ được.
Có lẽ người đời sau muốn suy tôn Khổng Tử nên mới bày ra chuyện nầy.)
Khổng Tử 35 tuổi, Quí Bình Tử và Hậu Chiêu Bá vì đá gà chọi mà đắc tội với Lỗ Chiêu Công. Chiêu Công đem binh đánh Bình Tử, Bình Tử hợp với Mạnh tôn thị, Thúc tôn thị, 3 nhà hợp công Chiêu Công. Binh Chiêu Công bại, chạy sang nước Tề (Tề đưa Chiêu Công ở Can hậu).
(Chuyện nầy thấy có ghi rõ trong Tả truyện. Can hậu hiện nay là An thành huyện, tỉnh Hà Bắc.)
Nước Lỗ loạn, Khổng Tử qua Tề (gia thần Cao Chiêu Tử muốn cho Cảnh Công hay) cùng với Thái sư nước Tề bàn về nhạc, nghe nhạc Thiều, rồi học 3 tháng mà không hề biết vị thịt, người nước Tề rất khen.
Cảnh Công hỏi việc chánh với Khổng Tử, Khổng Tử nói : " Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con ".
Cảnh Công khen : " Hay lắm ! Như vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, con chẳng ra con, tuy có lúa, ta có thể ăn được không ? "
Ngày khác, lại hỏi việc chánh với Khổng Tử, Khổng Tử đáp : " Việc chánh ở chỗ tiết kiệm tài vật "
Cảnh Công nói...
(Muốn đem ruộng Ni Khê phong cho Khổng Tử, Án Anh đến tâu : " Vả bọn nho là người khéo léo mà không làm theo đúng phép, kiêu ngạo mà hay thuận theo người. Không thể cho làm người giúp việc được...sùng thương tang lễ, cứ bi ai phá sản để lo việc tống táng cho trọng hậu, không thể lấy đó làm phong tục được, đi du thuyết kiếm lợi, không thể theo đó trị nước.
Từ khi bậc đại hiền hết, nhà Châu đã suy, Lễ Nhạc thiếu sót, bây giờ Khổng Tử lại muốn trau tria thêm, làm lễ phiền phức trọn đời không thể tìm cái học của ông ta, nếu bây giờ không thể tìm cái Lễ đó, mà lại muốn dùng để thay đổi phong thái của Tề thì chẳng phải là việc giúp cho dân vậy.
Sau đó Cảnh Công cung kính gặp Khổng Tử mà không hỏi Lễ, ngày khác ngăn Khổng Tử mà bảo rằng : Đãi ông như họ Quí, thì tôi không thể làm được, nên chỉ đãi giữa chừng của hai họ Quí, Mạnh mà thôi.
Đại phu nước Tề muốn hại Khổng Tử, Khổng Tử nghe được chuyện đó. Cảnh Công nói : " Tôi đã già rồi, không dùng được gì những lời của ông cả ".)
Khổng Tử liền trở về nước Lỗ.
(Đoạn văn đóng trong 2 dấu ngoặc là chỗ có nghi vấn. Về chuyện Cảnh Công muốn đem ruộng Ni Khê phong cho Khổng Tử, không thấy chép trong sách Luận Ngữ.)
Pho Sách ẩn có viết : Thuyết nầy xuất phát từ các sách " Án Tử xuân thu và Mặc Tử, văn thấy hơi lạ ".
Mấy học giả đời sau như Kim Lý Tường và Thôi Thuật đều cho rằng không thể tin được.
Thiên Bát dật trong pho Luận Ngữ ghi lời Khổng Tử : " Án Bình Trọng rất khó cư xử với người, ở lâu mà cung kính ".
Án Tử ngăn Khổng Tử không phải là sự thật. Trong sách " Thù Tứ khảo tín lục " có chép : Lúc Lỗ Chiêu Công chạy qua nước Tề thì Án Tử đã làm quan ở đó 40 năm rồi, năm sau đó có luận về Tuệ tinh (sao chổi) trong sách Tả truyện có ghi, rồi sau đó không thấy nhắc gì đến chuyện Án Anh nữa. Lúc Khổng Tử đến nước Tề, có lẽ Án Anh đã qua đời.
Mạnh Tử có nói : Khổng Tử qua nước Tề, không kịp chắt nước cơm mà đi, nhưng tại sao ra đi thì không có chứng cớ gì để tìm hiểu cho ra sự thật).
*
Khổng Tử 42 tuổi, Chiêu Công mất ở Can hậu, Định Công lên ngôi.
Mùa hạ, năm Định Công thứ 5 Quí Bình Tử mất, Hoàn Tử kế vị (Quí Hoàn Tử đào giếng, gặp hố đất, ở trong có con như dê, hỏi Trọng Ni, nói đó là chó, Trọng Ni nói : " Theo chỗ tôi nghe, đó là dê. "
Khâu nghe nói rằng : Loài quái của cây đá có : Đâu, vọng, lượng, loài quái của nước có : Long, võng, tượng. Loài quái của đất là phần dương.
Nước Ngô đánh nước Việt, được xương cốt cả xe, Ngô sai sứ đến hỏi Trọng Ni : " Xương của ai mà lớn vậy ? "
Trọng Ni đáp : " Vua Võ hội quần thần ở Cối Kê sơn, họ Phòng phong đến trễ, vua Võ giết trị tội, xương cốt chở đầy xe, vì thế xương mới lớn. "
Khách nước Ngô hỏi : " Ai làm thần ? "
Trọng Ni đáp : " Thần núi, sông, đủ làm kỷ cương cho thiên hạ..giữ đó là thần, xã tắc là chư hầu đều thuộc vua... "
Khách nước Ngô lại hỏi : " Họ Phòng phong giữ ở đâu ? "
Trọng Ni đáp : " Vua Uông Võ giữ núi Phong võ họ Ly, dưới thời Hạ, Thương, là Uông Võ, dưới thời nhà Châu là Trường Địch, bây giờ gọi là đại nhân ".
Khách lại hỏi : " Con người cao chừng bao nhiêu ? "
Trọng Ni đáp : " Họ Tiều Nghiêu thì 2 thước, rất thấp, còn người cao lắm thì bất quá bằng 10...đó là hết số ".
Người khách nước Ngô liền bảo : " Hay lắm ! Thật là Thánh nhân ! ")
(Sách " Gia ngữ biện vật giải " có chép chuyện Hoàn Vương bắt được Phần dương, đó là sự thật.
Còn đoạn viết " Ngô đánh bại Việt ở Cối Kê " trở về sau là do kẻ " tục nho " muốn cho rằng Thánh nhân học nhiều, chuyện gì cũng biết, cho nên mới bày ra chuyện truyền thuyết ấy.
Sử Công (Tư Mã Thiên) trích lại là có ý muốn đề cao Khổng Tử học rộng, nhưng không ngờ, những lời không chứng cớ, giọng nói không trang nhã, là không phải sử liệu chánh thức, bây giờ nên bỏ là đúng hơn.)
Sủng thần của Hoàn Tử là Trọng Lương Hoài cùng Dương Hổ có hiềm khích. Dương Hổ muốn đẩy Hoài, Công Sơn Bất Nửu ngăn việc đó.
Mùa thu năm ấy Hoài càng kiêu, Dương Hổ bắt Hoài, Hoàn Công giận, Dương Hổ liền bắt giam Hoàn Công rồi sau đó ăn thề mà thả Hoàn Công. Vì thế Dương Hổ càng xem thường Quí thị. Quí thị cũng không chường mặt, bồi thần cầm quốc chánh, vì thế từ Đại phu trở xuống đều xa chánh đạo, cho nên Khổng Tử không làm quan nữa, trở về nhà mà soạn lại Thi, Thơ, Lễ, Nhạc...đệ tử càng đông, từ phương xa đến, không ai là không học với Ngài.
(Chuyện nầy trong Tả truyện có ghi. Trong Luận Ngữ chép Dương Hổ là Dương Hóa, trong sách Mạnh Tử khi thì chép Dương Hổ, lúc chép Dương Hóa.)
Định Công năm thứ 8 (Công Sơn Bất Nửu vì bất đắc ý với Quí thị nên...) Dương Hổ làm loạn, muốn phế dòng chánh của Tam Hoàn lập dòng thứ, Dương Hổ giả làm lành và bắ Quí Hoàn Tử.
Hoàn Tử lừa được nên thoát khỏi. Dương Hổ không hơn được chạy sang Tề, lúc đó Khổng Tử 50 tuổi (Công Sơn Bất Nửu dùng đất Phí làm phản Quí Tử, rồi sai người đêán triệu Khổng Tử.
Khổng Tử không đem đạo ra thi hành đã lâu, nên buồn không chỗ đem ra dùng, và không ai dùng mình nên nói " Nhà Chu, Văn, Võ, nổi lên ở Phong sào mà làm vua, bây giờ đất Phí tuy nhỏ, nhưng có thể làm được không ? "
Ông muốn qua đó.
Tử Lộ không vui liền ngăn Khổng Tử, Khổng Tử nói : " Vả kẻ triệu ta, không lẽ phí công sao ? Như dùng ta, biết đâu sẽ thành nhà Đông Châu ?
Nhưng sau cùng ông không đi.)
(Về chuyện Công Sơn Bất Nửu làm phản, trong Tả truyện ghi thật rõ : " Mùa Hạ, năm Định Công thứ 12, Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, tham dự việc chánh, chủ trương trừng phạt Tam gia, Công Sơn Bất Nửu làm quan Tể đất Phí liền làm phản, tấn công Định Công, Khổng Tử sai Thân Câu Tu, Nhạc Hân chinh phạt và đánh bại Công Sơn Bất Nửu, Nửu chạy sang Tề.
Công Sơn Bất Nửu làm phản, là vì phản đối Khổng Tử, đâu có lẽ lại mời người mình chống đối đến tham chánh hay sao ?
Hơn nữa, Khổng Tử đã sai người đi chinh phạt Bất Nửu, thì đâu có lý nào khi nghe Nửu mời lại muốn đi đến ? Rồi lại nghĩ rằng sẽ giúp Nửu để gầy dựng thành nhà Đông Châu, thật là một điều hết sức vô lý.
Chuyện nầy thật đáng nghi, trong sách Thù Tứ khảo tín lục cũng nhận xét như thế, đoạn nầy nên cắt bỏ cho hợp lý.)
Sau đó Định Công dùng Khổng Tử làm Trung đô tể, một năm mà 4 phương đều theo phép tắc, từ Trung đô tể, Khổng Tử làm Tư Không, rồi từ Tư Không lên làm (đại) Tư Khấu.
(Trung đô là một ấp của nước Lỗ, ngày nay ở phía Tây huyện Văn Thượng tỉnh Sơn Đông.
Thưở đó Chư hầu chỉ có chức Tư Khấu, chớ không bao giờ có Đại Tư Khấu. Chữ Đại là sai...Người đời sau muốn tôn Khổng Tử nên thêm chữ Đại vào một cách sai lầm. Nên bỏ chữ Đại cho đúng).
Mùa Xuân năm thứ 10 đời Định Công, Lỗ đã bằng Tề, đến mùa Hạ (Đại phu nước Tề là Lê Sừ, bảo Tề Cảnh Công : Lỗ dùng Khổng Tử, cái thế tất làm nguy Tề) nước Tề sai sứ đến Lỗ mời đến hội ở Giáp Cốc để giao hảo.
Lỗ Định Công đi xe đến đó. Khổng Tử lo việc nhiếp chánh liền tâu : " Thần nghe nói nếu có việc văn thì phải có võ bị, có việc võ thì phải có văn bị. Đời xưa, khi chư hầu ra biên cảnh, thì phải có quan đi theo, xin vua đem theo quan Tư mã tả hữu.
Định Công nói : "  Phải ".
Liền đi đủ với Tư mã tả hữu, hội với Tần hầu ở Giáp Cốc, lập đàn vị, nền đất 3 cấp, dùng lễ hội ngộ tiếp nhau, xá nhường mà lên đàn, lễ dưng rượu xong, nước Tề có chức Hữu Tư bước tới tâu :
- Xin tấu nhạc tứ phương.
Cảnh Công đáp :
- Được.
Rồi cờ xí trương lên, kiếm kích vung ra, tiếng trống inh ỏi tiến tới.
Khổng Tử lật đật bước tới, leo lên bực đất, chưa hết một cấp giơ tay áo lên nói lớn :
- Hai vua ta đang hội giao hữu, nhạc di địch đến đây làm gì ? Xin hỏi quan Hữu Tư ?
Hữu Tư lại không đi.
Tả hữu liền nhìn Cảnh Công (và Án Tử) Cảnh Công sợ sệt liền cho bọn nhạc thối lui.
Giây lát, Hữu Tư nước Tề lại bước tới bảo :
- Xin tấu nhạc trong cung.
Cảnh Công đáp :
- Được.
Bọn con hát lại múa may bước tới, Khổng Tử bước ra, bước lên bực đất; chưa hết một cấp đã nói :
- Bọn thất phu mà lại làm rối loạn chư hầu, tội đáng giết !
Quan Hữu Tư liền thi hành theo phép, chặt tay chưn bọn ấy.
Cảnh Công sợ mà lung lay, biết lý mình không bằng, trở về mà hết sức sợ, bảo quần thần :
- Nước Lỗ dùng đạo quân quân tử để phò vua, còn các người dùng đạo di dịch để dạy cho quả nhân, làm đắc tội với vua Lỗ, bây giờ mới tính làm sao ?
Quan Hữu Tư liền đáp :
- Người quân tử có lỗi phải tạ bằng vật làm tin, người tiểu nhân thì tạ bằng văn. Như vua có ngại điều đó thì tạ bằng vật làm tin.
- Vì thế Tế hầu liền trả lại những đất Văn dương, Quyền đã lấy của nước Lỗ để tạ lại việc ấy.
(Trong sách Xuân Thu có chép rõ vụ Tề trả mấy vùng đất kể trên cho Lỗ, là do công của Khổng Tử, nhưng tình hình thật sự của cuộc hội ấy như thế nào, thì chưa rõ lắm, có lẽ người ta đã khoa trương thêm nhiều để đề cao Khổng Tử.)
Mùa Hạ, năm thứ 13, đời Định Công, Khổng Tử tâu với Địng Công :
- Làm tôi không chứa giáp binh, Đại phu không có thành cao 100 trỉ.
Khiến Trọng Do làm quan tể cho Quí thị để phạt Tam đô. Vì thế Thúc Tôn thị hạ đất Hậu trước, rồi Quí thị định đánh Phí, Công Sơn Bất Nửu, Thúc Tôn tiếp liền đem người Phí đánh Lỗ. Định Công và 3 người con vào cung Quí thị, lên đài Võ tử.
Người Phí tấn công tới, nhưng không được (có mũi tên bay bên cạnh Định Công).
Khổng Tử sai Thân Câu Tu, Nhạc Hân xuống đánh, người Phí thua, bị đuổi theo và bị bại ở Cô miệt. Hai ông liền chạy sang nước Tề, đất Phí bị hạ luôn...liền sửa soạn đánh đất Thành, Công Kiểm Xử Phủ bảo Mạnh Tôn :
- Đánh Thành, thì người nước Tề ắt kéo đến cửa Bắc, vả lại Thành là bình phong cho Mạnh thị, nếu không còn đất Thành, thì không còn Mạnh thị vậy, ta nên giả vờ là không biết...theo tôi thì không nên đánh Thành.
Tháng 12 Định Công vây thành, nhưng không lấy.
(Chuyện nầy có ghi trong Xuân Thu nhằm năm Định Công thứ 12, đây chép lộn là thứ 13.
Tam Đô là đô của Tam gia, Đất Hậu ở phía Nam huyện Đông Bình tỉnh Sơn Đông, đất Thành ở phía Đông Bắc huyện Ninh Dương tỉnh Sơn Đông.)
Định Công năm thứ 14, Khổng Tử 56 tuổi, từ Đại Tư Khấu, lên làm Nhiếp tướng, có sắc vui. Môn nhơn nói :
- Nghe nói người quân tử họa đến không sợ, phước đến không mừng...
Khổng Tử đáp :
- Có lời nói như vậy, nhưng cũng nên vui vì được làm kẻ dưới của người quí...
Ông liền giết Thiếu chánh Mão là Đại phu nướcLỗ đã làm loạn chánh.
Ông lo việc chánh trị trong nước 3 tháng người trong nước trở nên thành thật, nam nữ đi đứng riêng biệt ngoài đường, ngoài đường không lượm của rơi, khách bốn phương đến ấp chẳng cần quan Hữu Ty, y như là về nhà mình.
Người nước Tề nghe rất sợ liền nói :
- Khổng Tử làm việc chánh thì nên nghiệp bá, nên nghiệp Bá, thì đất ta rất gần, bây giờ ta nên chiếm trước...không nên để lâu.
Lê Sừ nói :
- Xin trước tìm cách ngăn trở, ngăn trở không được thì chiếm đất, đâu có chậm gì ?
Vì thế chọn gái đẹp nước Tề, 80 người, đều mặc áo đẹp, múa nhạc, đem ngựa 30 con đưa qua vua Lỗ...rồi bày nữ nhạc và ngựa ngoài cửa thành nam nước Lỗ.
Quí Hoàn Tử mặc thường phục đến xem đôi ba lần, sắp sửa nhận, liền cho vua Lỗ hay đi chơi khắp đường, và đến xem suốt ngày...trễ nãi cả việc chánh.
Tử Lộ nói :
- Phu Tử có thể bỏ đi rồi đó...
Khổng Tử đáp :
- Nước Lỗ sắp tế giao, nếu như đem phần thịt "phiên" cho Đại phu, thì ta còn có thể ở lại...
Sau nầy Hoàn Tử nhận nữ nhạc, luôn ba ngày không lo việc chánh, tế lễ giao lại không đưa phần thịt cho Đại phu, Khổng Tử liền đi, ở đêm nơi đất Đồn.
Sư Kỷ đưa mà nói rằng :
- Phu Tử chắc không trách...
Khổng Tử đáp :
- Bây giờ ta hát, có được không ? Hát rằng "Vì miệng mấy đứa con gái kia, có thể ra đi...cái êm ấm của mấy đứa con gái kia, vì đó mà chết...hư việc...việc vui chơi duy chỉ làm hết đời."
Sư Kỷ trở lại, Hoàn Tử hỏi :
- Khổng Tử có nói gì không ?
Sư Kỷ thưa lại sự thật.
Hoàn Tử thở ra than rằng :
- Phu Tử trách tội ta là vì mấy đứa nữ nhạc ấy chăng ?
(Chuyện nầy đều có chép trong sách Luận Ngữ và Mạnh Tử. Khi Hoàn Công nhận nữ nhạc là Khổng Tử đã quyết chí ra đi rồi. Nhưng không muốn nêu cái sai lầm của vua lên quá rõ, cho nên mới mượn cớ thiếu phần thịt, một chuyện nhỏ để ra đi.
Nhưng về chuyện nữ nhạc của nước Tề, một nhà học giả sau nầy là Thôi Thuật bảo là không đáng tin, trong sách Thù Tứ khảo tín lục đã biện luận thật rõ ràng. Thiên Hiến vấn trong sách Luận Ngữ có chép : Công Bá Liêu tố Tử Lộ với Quí Tôn, Tử Phục Cảnh Bá cho hay :
- Nếu Phu Tử có gì không đắc chí với Công Bá Liêu, thì tôi có thể giúp ở triều.
Khổng Tử đáp :
- Đạo làm được chăng ? Mạng vậy ! Đạo có bị phế chăng ? Mạng vậy ! Công Bá Liêu có ăn thua gì với mạng đâu !
Sở dĩ Khổng Tử có thể thi hành đạo mình với Quí Tôn, là nhờ Tử Lộ làm quan tể với họ Quí, được Hoàn Tử tín nhiệm...vì thế nếu tố Tử Lộ (học trò Khổng Tử) với Quí Tôn, tức ly gián Khổng Tử.
Quí Hoàn Tử đã bị nghi ngờ vì Công Bá Liêu, thì Tử Lộ không còn được tin dùng như trước, như thế Khổng Tử không thể không đi được.
Rồi nhơn kỳ tế Quân giao ơở tháng Dần [háng giêng ] Khổng Tử tìm cớ ra đi.)
Khổng Tử liền qua nước Vệ, ở nhà anh của Tử Lộ, nhà Nhan Thục Trâu.
Vệ Linh Công hỏi :
- Khổng Tử ở nước Lỗ, ăn lộc bao nhiêu ?
Có người đáp :
- Lúa lương 6 vạn.
Nước Vệ cũng cho lúa 6 vạn...(ở không bao lâu, có kẻ gièm Khổng Tử với Vệ Linh Công, Linh Công sai Công Tôn Giả nói ra nói vào, Khổng Tử sợ bị tội) ở 10 tháng liền bỏ nước Vệ ra đi...
(Nhan Thục Trâu tức Nhan Thùy Do vợ Di Tử Hà...
Khổng Tử bỏ nước Vệ ra đi là vì Linh Công lợt lạt, nếu bị gièm pha mà sợ tội thì tại sao ở đến 10 tháng mới ra đi ? Hơn nữa, không bao lâu ông lại trở về nước Vệ, như thế đoạn "ở không bao lâu...đến sợ bị tội" nằm trong 2 dấu ngoặc nên bỏ là hợp lý hơn).
Sắp qua nước Trần, đi ngang đất Khuôn, Nhan Cao theo hầu giơ tay chỉ nói rằng : "Ngày trước tôi có vào đây...
Người đất Khuôn nghe nói, ngỡ đó là DươngHổ của nước Lỗ...Vì Khổng Tử hình dáng giống Dương Hổ Dương Hổ thường tàn bạo với người Khuôn, người Khuôn liền ngăn Khổng Tử, 5 ngày Nhan Uyên đến...
Khổng Tử nói :
- Ta ngỡ rằng người đã chết !
Nhan Uyên đáp :
- Thầy còn, Hồi đâu dám chết ?
(Người Khuôn vây Khổng Tử càng gấp) đệ tử sợ, Khổng Tử bảo :
- Văn Vương đã mất...Bây giờ văn không còn ở đây sao ? Nếu trời muốn làm mất văn vẻ ấy, thì kẻ sau chết, không thể hưởng được nền văn vẻ ấy...Còn nếu như trời không muốn làm mất nền văn vẻ ấy, thì người Khuôn không làm gì ta được đâu !
(Khổng Tử khiến kẻ đi theo làm tôi cho Ninh Võ Tử ở nước Vệ, sau đó mới được đi).
(Đất Khuôn hiện nay là huyện Trường Viên ở phía Tây Nam tỉnh Hà Bắc. Câu "người Khuôn vây Khổng Tử càng gấp" dư, nên bỏ.
Lúc Khổng Tử đến nước Vệ là nhằm năm thứ 30 Vệ Linh Công, lúc đó Ninh Võ Tử đã chết, nên câu "Khổng Tử khiến kẻ đi theo...nên bỏ, có lẽ người sau lầm nên thêm vào).
Liền qua đất Bồ, hơn 1 tháng, trở lại nước Vệ, ở nhà Cừ Bá Ngọc, vợ vua Linh Công có bà Nam Tử, cho người đến nói với Khổng tử :
- Người quân tử bốn phương nếu không nhục làm bạn với quả quân tôi, thì cũng nên đến gặp quả tiểu quân".
Khổng Tử từ tạ, và bất đắc dĩ đến ra mắt.
Phu nhơn ở trong màn thưa, Khổng Tử bước vào, day mặt về hướng Bắc cuối đầu...Phu nhân ở trong màn đáp lễ, tiếng ngọc đeo trong mình vang lên.
Khổng Tử nói :
- Đáng lẽ tôi không đến, nhưng phu nhân đã gọi ra mắt, tôi phải đáp lễ.
Tử Lộ không vui, Khổng Tử thề rằng :
- Ta có điều gì sai quấy...Trời hại ta...Trời hại ta...
Ở nước Vệ hơn tháng, Linh Công và phu nhân ngồi chung xe, hoạn quan là Ung Cừ cũng ngồi...cùng đi ra, để Khổng Tử ngồi xe sau, rong qua chợ.
Khổng Tử nói :
- Ta chưa thấy ai hiếu đức như hiếu sắc.
Ông xấu hổ bỏ nước Vệ qua nước Tào.
(Câu chuyện Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử có chép trong thiên Ung Dã sách Luận Ngữ.
Chuyện Khổng Tử ra mắt Nam Tử, Tử Lộ không vui, Khổng Tử không nói rõ, tại sao mình đến mà chỉ thề thốt, như thế không ai hiểu được. Nhưng xét qua lời nói của sứ giả Nam Tử đến gặp Khổng Tử khi mới đến nước Vệ, ở tại đó độ 10 tháng, Nam Tử chưa gặp ông lần nào.
Lần nầy ở Vệ hơn mười tháng, nàng lại muốn gặp, đó là huyện không hợp tình hợp lý chút nào, có chỗ đáng nghi ngờ...Trong sách Luận Ngữ tập giải, theo lời Khổng An Quốc, cũng nghi ngờ chuyện nầy.
Có thuyết lại cho rằng, trong thời gian ở Vệ 10 tháng, Linh Công với Nam Tử đi xe trước, bảo Khổng Tử ngồi xe sau, ông buồn vì bị đối xử thiếu lễ nên ra đi).
Năm ấy Lỗ Định Công mất.
Khổng Tử qua nước Tào, nước Tống, cùng đệ tử giảng tập Lễ dưới cây to...Tư Mã nước Tống là Hoàn Đồi muốn giết Khổng Tử nên bứng cây...
Đệ tử bảo :"Bây giờ là lúc nên đi..."
Khổng Tử nói :
- Trời sanh đức nơi ta ! Hoàn Đồi làm gì ta được !
Khổng Tử qua nước Trịnh, cùng đệ tử lạc nhau. Khổng Tử đứng một mình ở cửa Đông nước Trịnh. Người nước Trịnh có kẻ bảo Tử Cống :
- Ở cửa Đông có người giống như vua Nghiêu, trán như Cao Dao, vai như Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống, ngắn hơn vua Võ 3 tấc...đứng bơ phờ như chó nhà có đám tang...
Tử Cốngnói lại sự thật cho Khổng Tử nghe. Khổng Tử cười nói :
- Hình trạng chưa chắc là như vậy. Nhưng như chó nhà có đám tang thì rất đúng, rất đúng !
(Trong đoạn nầy "bứng cây..." là không hợp lý, vì lúc đó Hoàn Đồi làm Tư Mã nước Tống, lại chuyên quyền, nếu muốn giết Khổng Tử là một chuyện dễ dàng. Bứng gốc cây mà làm gì ?).
Vua nước Ngô là Phù Sai đánh nước Trần, lấy 3 ấp rồi về...
Triệu Ưởng đánh Triều ca, Sở vây nước Thái, nước Đới sang Ngô, nước Ngô đánh bại vua Việt là Câu Tiển.
Có con chim bay đến sân nước Trần mà chết, có mũi tên xuyên ngang, nõ bằng đá, tên dài hơn thước...Vua Trần sai sứ đến hỏi Trọng Ni.
Trọng Ni đáp :
- Chim từ xa đến đây vậy ! Và đây là tên của Tiêu Thận.
Ngày xưa Võ vương đánh nhà Thương, thông đường 9 rợ, 8 man và khiến các nơi đem lễ vật đặc biệt của mình đến cống...để cho không quên nghề nghiệp.
Vì thế Tiêu Thận cống tên và nõ đá, tên dài hơn thước, vì Tiêu vương muốn làm tỏ đức lành của mình liền lấy tên của Tiêu Thận chia cho Thái Cơ, Ngu Hồ Công và phong cho đất Trần...
Chia cho những người đồng tánh châu ngọc, mở rộng thân thích...chia cho những người khác họ những chức phương xa, để cho không quên mến phục...vì thế mà chia tên của Tiêu Thận cho nước Trần...Liền tìm ở phủ xưa, quả thấy loại tên ấy.
(Chuyện nầy giống như chuyện Phần dương và xương của họ Phòng phong ở đoạn trước, mục đích để đề cao Khổng Tử là người hiểu rộng biết nhiều...và đây cũng là loại chuyện truyền thuyết).
Khổng Tử ở nước Trần 3 năm, gặp lúc Tấn, Sở tranh biên giới rồi lại đánh Trần, rồi Ngô xâm lấn Trần, nước Trần thường bị giặc cướp.
(Khổng Tử nói : Về vậy...về vậy, Tiên tử chúng ta điên cuồng, tiến thủ, không quên lúc ban đầu).
Vì thế, Khổng Tử bỏ nước Trần.
(Đoạn "Khổng Tử nói..." nằm trong 2 dấu ngoặc sắp lộn nên bỏ.)
Qua đất Bồ, họ Công thúc dựa vào đất Bồ làm phản. Người Bồ ngăn Khổng Tử, đệ tử có người tên Lương Nhụ dùng xe riêng 5 chiếc theo Khổng Tử, người nầy cao lớn, hiền, có dõng lực, nói rằng :
- Ta theo Phu Tử, gặp nạn ở đất Khuôn, nay lại gặp nạn ở đây, cũng là mạng mà thôi !
Ta với Phu Tử lại mắc nạn, thà là chiến đấu mà chết !
Đánh rất hăng, người Bồ sợ, nói với Khổng Tử :
- Nếu ông không qua Vệ, tôi để ông đi.
Cùng thề với nhau rồi ra cửa Đông, Khổng Tử liền qua Vệ.
Tử Cống hỏi :
-Lời thề có thể phụ chăng ?
Khổng Tử đáp :
- Nếu cần thề, thì thần không nghe !
Vệ Linh Công nghe Khổng Tử đến rất mừng nên ra tận bên ngoài đón tiếp và hỏi :
- Đất Bồ có thể đánh không ?
Đáp :
- Có Thể...
Linh Công nói :
- Đại phu tôi đều nói là không thể được. Vì đất Bồ, là Vệ dùng để chậm trễ Tấn và Sở, Vệ đánh Bồ có phải là không nên chăng ?
Khổng Tử nói :
- Số đàn ông con trai có chí chết, và số đàn bà có chí gìn giữ Tây Hà...chúng ta chỉ đánh bất quá chừng 4, 5 người mà thôi.
Linh Công nói :
- Hay lắm...
Nhưng không đánh Bồ.
Linh Công đã già...trễ nãi việc chánh, không dùng Khổng Tử.
Khổng Tử buồn than rằng :
- Nếu có kẻ dùng ta, chỉ một tháng mà thôi...Nếu
3 năm thì thành công...(Khổng Tử ra đi).
(Câu "Khổng Tử ra đi lầm lẫn, nên bỏ.)
Phật Hật làm quan Tể đất Trung Mâu, Triệu giản Tử đánh Phạm trung Hàng thị, đánh Trung Mâu,Phật Hật làm phản sai người đến rước Khổng Tử, Khổng Tử muốn đi.
Tử Lộ thưa :
- Do nầy có nghe Phu Tử nói "Người mà gần kẻ không lành, thì người quân tử không đến, bây giờ Phật Hật dựa đất Trung Mâu làm phản, thầy muốn đến là làm sao ?"
Khổng Tử đáp :
- Quả ta có nói lời ấy...nhưng ta cũng từng nói :"thật là cứng, mài cũng mòn, thật là trắng, nhuộm cũng đen", ta đâu phải là trái biều qua, cứ treo mà chẳng ăn ?
(Đất Trung Mâu hiện nay ở phía Tây huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam. Chuyện nầy có ghi trong Luận Ngữ, thiên Dương Hoá, nhưng theo Thù Tứ khảo tín lục, thì chuyện Phật Hật làm phản là dưới thời Triệu Tương Tử, mà lúc Tương Tử lên ngôi thì Khổng Tử đã mất 5 năm rồi...như thế làm sao có chuyện nầy được...đoạn nầy nên bỏ là hợp lý.
Hơn nữa, con người như Khổng Tử đâu có vì cái ăn mặc mà đi theo người bất chánh.)
Khổng Tử đánh cái khánh, có người vác nặng đi ngang qua cửa nói :
- Người đánh khánh, thật là có tâm vậy...không ai biết mình thì thôi vậy !
Khổng Tử học đàn với sư Nhượng 10 ngày mà chẳng tiến, sư Nhượng bảo :
- Có thể học thêm nữa.
Khổng Tử đáp :
- Khâu đã tập cái "khúc" nhưng chưa biết cái "số".
Giây lát sư Nhượng lại nói :
- Đã tập được cái "số" rồi, có thể học thêm...
Khổng Tử đáp :
- Khâu chưa nhận được cái "chí".
Giây lát sư Nhượng lại nói :
- Đã tập được cái "chí" rồi, có thể học thêm...
Giây lát sư Nhượng lại nói :
- Đã tập được cái "số" rồi, có thể học thêm...
Khổng Tử lại nói :
- Tôi chưa nhận được cái đạo làm người.
Giây lát, dường như có điều gì sáng lên và nghiêm trang nghĩ ngợi...rồi lại thơ thới nhìn lên cao mà có chí xa :
- Khâu đã nhận được cái đạo làm người...lờ mờ mà tối đen...gần mà như xa...mắt như nhìn biển rộng, tâm như làm vua 4 nước nếu không phải là Văn Vương thì ai làm được việc đó.
Sư Nhượng đúng dậy chắp tay xá bảo rằng :
- Phải rồi, đó là tiếng đàn của vua Văn Vương.
(Đoạn nầy muốn nói lên cái chí học tập chuyên cần của Khổng Tử...ông muốn tìm cái đạo trong tiếng đàn và nhận ra được tính chất của nhạc...)
Khổng Tử đã không đắc dụng ở Vệ, liền sắp sửa đi qua hướng Tây ra mắt Triệu giản Tử, đến sông Hà, nghe tin Đậu Minh và Thuấn Hoa chết, ông đứng bên sông Hà than :
- Đậu Minh và Thuấn Hoa là hiền đại phu của nước Tấn, lúc Triệu giản Tử chưa đắc chí, nhờ 2 người ấy mà bắt đầu việc chánh, nhung đến khi đắc chí rồi, thì giết những người ấy để làm việc chánh.
Khâu có nghe nói : Mổ thai giết trẻ con thì Kỳ Lân chẳng đến bờ cõi, tát đầm cạn cá thì giao long chẳng hợp âm dương, lật ổ phá trứng thời phụng hoàng chẳng bay.
Tại sao vậy ? Người quân tử kiêng việc hại đồng loại, vả lại điểu thú với việc bất nghĩa còn biết tránh, hà huống gì Khâu nầy ?
Bèn trở về Aáp Trâu, làm bài Trâu thao để ghi chuyện buồn ấy, rồi trở lại nước Vệ ở nhà Cừ Bá Ngọc.
*
Ngày nọ Linh Công hỏi việc binh.
Khổng Tử nói :
- Về chuyện cái trở, cái đậu, (tế, lễ) thì tôi thường nghe còn về chuyện binh thì tôi chưa học.
Ngày sau, cùng chuyện trò với Khổng Tử, thấy con chim Hồng, liền ngửng mặt nhìn, không hề chú ý đến Khổng Tử.
Khổng Tử liền ra đi, và lại qua nước Trần.
Mùa Hạ, Vệ Linh Công mất, lập cháu là Triếp, đó là Vệ Xuất Công.
Tháng 6, Triệu Ưởng đem thái tử Khoái Hội vào đất Thích, khiến thái tử để tang và 8 người mặc sô gai, giả vờ như rước từ nước Vệ về khóc mà vào rồi ở luôn.
Mùa Đông, nước Thái dời sang Châu Lai.
Năm ấy, nhằm năm thứ 3 Lỗ Ai Công, Khổng Tử được 60 tuổi, Tề giúp Vệ vây đánh Thích, vì sự có mặt của thái tử nước Vệ là Khoái Hội đang ở đó.
*
Miếu thờ của Lỗ Hoàn Ly bị cháy, Nam cung Kỉnh Thúc đến cứu hoả, lúc đó Khổng Tử đang ở nước Trần, nghe chuyện đó, liền bảo :
- Tai nạn xảy ra ở miếu thờ Hoàn ly phải không ?
Quả nhiên là như thế.
Quí Hoàn Tử bịnh, đi xe đến nhìn, thành nước Lỗ và than rằng :
- Ngày trước nước nầy sắp hưng lên nhưng vì ta đắc tội với Khổng Tử, cho nên không hưng được.
Liền quay lại bảo người nối nghiệp là Khương Tử :
- Nếu ta chết, thì người tất làm tướng nước Lỗ, và làm tướng nước Lỗ thì phải triệu Trọng Ni.
Sau đó mấy ngày, Hoàn Tử chết, Khương Tử lên ngôi. Chôn cất xong, muốn triệu Khổng Tử.
Công Chi Ngư nói :
- Ngày xưa tiên quân ta dùng người ấy không trọn, làm cho chư hầu cười...Ngày nay lại dùng nữa, nếu không trọn, thì lại bị chư hầu cười nữa.
Khương Tử nói :
- Như vậy thì triệu ai được ?
Đáp :
- Nên triện Nhiễm Cầu...
Liền sai sứ triệu Nhiễm Cầu.
Nhiễm Cầu sắp sửa đi, Khổng Tử nói :
- Người nước Lỗ triệu Cầu, không phải dùng vào chức vụ nhỏ đâu. Tất là phải giao cho trách nhiệm nặng nề.
Ngày ấy, Khổng Tử nói :
- Về vậy...về vậy...bọn tiểu tử của chúng ta điên cuồng bây giờ đã văn vẻ sáng láng, ta không biết phải lấy gì để giúp đỡ !
Tử Cống biết Khổng Tử có ý nghĩ trở về, nên trong khi đưa Nhiễm Cầu liền căn dặn :
- Nếu ngươi được dùng, là nhờ Khổng Tử làm tiếng tăm đó.
(Nhiễm Cầu đã đi)
Năm sau, Khổng Tử từ Trần qua Thái, Thái Chiêu Công sắp sửa qua Ngô, vì nước Ngô triệu ông.
Trước kia, Chiêu Công dối bầy tôi, dời qua Châu Lai, nên khi sắp sửa đi, quan Đại phu lại sợ ông rồi sẽ đi nữa...
Công Tôn Phiên bắn, giết chết Chiêu Công, nước Sở xâm lăng Thái, mùa Thu năm sau, Tề Cảnh Công mất.
(Câu "Nhiễm Cầu đã đi" nằm trong 2 dấu ngoặc, không liên hệ đến đoạn nầy, nên bỏ).
*
Năm sau, Khổng Tử từ Thái qua đất Diệp. Diệp Công hỏi về việc chánh, Khổng Tử đáp :
- Việc chánh ở chỗ làm cho kẻ xa đến và nương tựa với kẻ gần...
Ngày khác, Diệp Công lại hỏi về chuyện Khổng Tử với Tử Lộ. Tử Lộ không trả lời...
Khổng Tử bảo Tử Lộ :
- Sao ngươi không trả lời...là con người của ta học đạo chẳng mệt mỏi, dạy người không nản, có chuyện gì bứt rứt là quên ăn, lấy cái vui đẻ quên điều lo buồn...chẳng hay cái già đã gần đến nơi.
(Bỏ đất Diệp, trở qua Thái).
(Những câu nằm trong dấu ngoặc lầm lẫn nên bỏ).
Trường Thư, Kiệt Nịch cày đôi.
Khổng Tử (cho rằng những người ấy là ẩn sĩ) khiến Tử Lộ đến hỏi đường...
Trường Thư nói :
- Ai đang ngồi trên xe đó ?
Tử Lộ đáp :
- Đó là Khổng Khâu.
Nói :
- Phải Khổng Khâu ở nước Lỗ không ?
Đáp :
- Phải.
Nói :
- Người ấy tất là phải biết đường...
Kiệt Nịch hỏi Tử Lộ :
- Còn ông là ai ?
Đáp :
- Tôi là Trọng Do.
Nói :
- Ông phải là học trò Khổng Khâu không ?
Đáp :
- Phải.
Kiệt Nịch nói :
- Chuyện lo lắng, trong thiên hạ ai cũng đều như vậy...nhưng ai thay đổi được ? Nếu theo kẻ sĩ lánh người thì thà là kẻ sĩ lánh đời còn hơn...
Rồi tiếp tục cày như trước.
Tử Lộ đem việc ấy thưa lại với Khổng Tử.
Khổng Tử bùi ngùi nói rằng :
- Điểu thú không thể đồng bầy...trong thiên hạ có đạo, Khâu nầy cực nhọc để thay đổi làm gì...
Ngày nọ Tử Lộ đi, gặp người vác bồ cào, chống gậy...
Tử Lộ hỏi :
- Ông có thấy Phu Tử không ?
Người chống gậy hỏi :
- Tay chân không siêng năng, không phân biệt được loài ngũ cốc, mà làm thầy ai ?
Rồi cầm gậy mà bừa...
Tử Lộ đem việc ấy thưa lại với Khổng Tử.
Khổng Tử nói :
- Đó là kẻ ở ẩn.
Trở lại tìm thì không còn tìm thấy người ấy nữa.
(Hai chuyện kể trên có chép trong thiên Vi Tử sách Luận Ngữ, Trường Thư và Kịch Niệt không phải là tên người, Trường và Kiệt là chỉ người diện mạo khôi ngô, còn Thư và Nịch là muốn nói chân dẫm trong bùn.
Ngẫu nhiên mà gặp để hỏi đường thì làm sao mà biết tên được...cũng y như trên, người vác giỏ và vác bồ cào.
Trong sách Luận Ngữ đoạn nầy viết rất rõ).
Khổng Tử dời qua Thái, ở 3 năm, Ngô đánh Trần...Sở đến cứu Trần đóng quân ở Thành Phủ (nghe) Khổng Tử đang ở giữa 2 nuớc Trần, Thái (Sở sai người đến mời Khổng Tử... Khổng Tử sắp đến đáp lễ, Đại phu của Trần và Thái liền bàn :
- Khổng Tử là người hiền những lời phê phán của ông đều đúng với lịnh của chư hầu...bây giờ ông đã ở bên giữa Trần và Thái, mà những lời nói, việc làm của các Đại phu đều không đúng với ý của Khổng Tử.
Nước Sở là nước lớn, đến rước Khổng Tử, nếu Khổng Tử đắc dụng ở Sở thì các Đại phu đang làm việc ở Trần, Thái đều nguy.
Liền sai bọn tay chân đến vây Khổng Tử ở giữa đồng, làm cho ông không đi được).
Tuyệt lương, những người đi theo đều bịnh không ai dậy được. Khổng Tử vẫn cứ dạy học, đàn hát không ngưng.
Tử Lộ tức giận ra mắt và nói :
- Người quân tử cũng có lúc cùng sao ?
Khổng Tử đáp :
- Người quân tử cầm chắc cái cùng, còn kẻ tiểu nhân gặp cùng là bị lạm vậy.
Tử Cống nghiêm sắc mặt.
Khổng Tử :
- Tử à...ngươi nghĩ rằng ta học nhiều mà nhớ chăng ?
Thưa :
- Chẳng phải như vậy sao ?
Khổng Tử đáp :
Không phải như vậy, ta chỉ "nhứt dĩ quán chi" mà thôi (nắm điều mấu chốt mà thông tất cả).
Khổng Tử biết đệ tử có lòng lo lắng, (liền triệu Tử Lộ) nói :
Kinh Thi có nói rằng : loài thú dữ, hãy đuổi nó ra đồng vắng".
Đạo của ta sai quấy chăng ? Tại sao ta lại đến mức nầy ?
Tử Lộ nói :
- Hay là chúng ta chưa đủ " nhơn " chăng ? Vì thế người ta không tin ta. Hay là chúng ta chưa đủ trí chăng, Vì thế người ta không làm theo ta ?
Khổng Tử nói :
- Đâu có lẽ như thế ! Do ơi : Ví như người nhơn tất phải có người tin theo thì đâu có Bá Di, Thúc Tề. Ví như người trí, tất phải có người làm theo, thì đâu có Vương Tử, Tỷ Can ?
(Tử Lộ ra, Tử Cống vào ra mắt)
Khổng Tử nói :
- Tứ ơi ! Kinh Thi có nói : loài thú dữ, đuổi mầy ra đồng trống...Đạo của ta sai chăng ? Tại sao ta lại đến mức nầy ?
Tử Cống thưa :
- Đạo của Phu Tử rất lớn...cho nên trong thiên hạ không một ai có thể dung chứa Phu Tử được ! Tại sao Phu Tử xem thường mình ?
Khổng Tử nói :
- Tứ ơi ! Người làm ruộng giỏi có cấy trồng mà không gặt hái, người thợ giỏi làm khéo léo mà không có người thuận, người quân tử trau dồi được giềng mối lớn mà gom lại rồi sắp xếp có qui tắc, mà không có người dung chứa mình được...Bây giờ ngươi không lo trau dồi đạo của ngươi mà cứ cầu cho được người dung chứa...như thế thì Tứ ơi ! Chí của nhà ngươi không rộng !
(Tử Cống ra, Nhan Hồi vào ra mắt)
Khổng Tử nói :
- Hồi ơi ! Trong Kinh Thi có nói : loài vật dữ đuổi mầy ra đồng trống...Đạo của ta sai lầm chăng ? tại sao ta lại đến mức nầy ?
Nhan Hồi thưa :
- Đạo của Phu Tử rất lớn, cho nên trong thiên hạ không ai dung chứa được. Tuy nhiên, Phu Tử cứ tiến tới mà làm, dù cho không dung chứa được, thì cũng chẳng hại gì.
Chẳng dung được...mà sau đó mới thấy được người quân tử. Nếu đạo mà không trau dồi, đó là điều xấu hổ của chúng ta.
Nếu đạo đã được trau dồi nhiều, mà không được dùng, thì đó là điều xấu hổ của kẻ cầm vận mạng nước...
Không dung được...có hại gì đâu ! Không dung được, sau đó mới thấy được người quân tử !
Khổng Tử vui vẻ cười mà nói rằng :
- Có như thế chớ ! Như Nhan Hồi, nếu mà ngươi nhiều của, thì ta làm quan Tể cho ngươi !
(Liền sai Tử Cống qua Sở, Sở Chiêu Vương hưng binh rước Khổng Tử, mà sau đó mới khỏi bị vây).
(Chuyện nầy có chép trong sách Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công.
Những đoạn nằm trong dấu ngoặc đều sai lầm nên bỏ.
Về đoạn nầy học giả Tưởng Bá Tiềm có nhận xét : câu chuyện Khổng Tử bị tuyệt lương do các quan Đại phu của hai nước Trần, Thái âm mưu vây khổn, Châu Tử đã phân tích là sai lầm rồi...Nhưng Châu Tử lại nói lúc đó Trần và Thái đều thần phục nước Sở, đó là điều lầm lẫn.
Thật ra lúc ấy nước Trần thần phục Sở, Thái thì thần phục Ngô, cho nên Sở bức nước Thái, Ngô mới dời nước ấy đến Châu Lai, Ngô mà đánh Trần, thì Sở cứu.
Hai nước Trần, Thái, một thì theo Sở, một theo Ngô, găng nhau như nước với lửa, hơn nữa, Thái đã dời đến Châu Lai, cách Trần rất xa, Đại phu của hai nước ấy làm sao hợp nhau để bàn mưu vây Khổng Tửđược ?
Nếu như hưng binh hai nước ấy để vây Khổng Tử, thì số thầy trò của Khổng Tử không đông bao nhiêu, nếu bắt và giết là một việc rất dễ dàng, tại sao lại để cho những người ấy ở giữa vòng vây giảng đạo...đàn, hát như thế ?
Hơn nữa, nước Sở vì cứu Trần mà đến, nếu Trần nghe Sở định rước Khổng Tử, thì có bao giờ dám vây những người ấy ? Nước Sở cứ ra lịnh, là Trần tất nhiên phải thả thầy trò Khổng Tử...đâu có cần phải hưng binh để đi rước...
Một điều khác, nước Sở đến là để cứu Trần, chớ chẳng phải chỉ có việc cứu Khổng Tử...Cũng có thể Sở đến rước mấy thầy trò Trọng Ni, nhưng theo sử sách thì mùa Thu năm ấy, Sở Chiêu Vương mất ở Thành phủ, đâu có về Sở, nếu Khổng Tử đến thăm Chiêu Vương thì tất nhiên cũng đang ở Thành phủ.
Câu chuyện kể trên không có bằng chứng gì xác đáng để tin.
Mặc Tử, trong thiên Phi Nho đã viết : " Khổng Tử bị cùng ở vùng Trần Thái, canh rau không đủ...10 ngày đã qua, Tử Lộ nấu thịt heo, Khổng Tử không hỏi thịt từ đâu có mà cứ ăn...Có người dưng rượu, Khổng Tử không hỏi rượu từ đâu đến mà cứ uống.
Tất nhiên, đây là những lời phỉ báng của phái Mặc, nhưng sự tuyệt lương của Khổng Tử là có thật.
Mạnh Tử có nói : Khổng Tử bị tai nạn ở vùng Trần, Thái vì trên dưới không giao thiệp nhau, nhưng lại nói Khổng Tử là tôi Trần Hầu, nếu đã là tôi thì tại sao trên dưới không có giao thiệp nhau ?
Nếu lúc đó đã làm tôi nước Trần, tại sao lại lưu liên ở giữa hai vùng Trần, Thái, để gặp Ngô, Sở đánh nhau rồi bị tuyệt lương.
Trong sách Luận Ngữ tập giải, thiên Vệ Linh Công ở chương Tại Trần tuyệt lương có ghi lời chú : theo Khổng an Quốc thì Ngô đánh Trần, nước Trần bị loạn, cho nên thiếu ăn.
Theo lời chú nầy có lẽ gần với sự thật hơn hết).
(Chiêu Vương sắp đem đất thơ xã 700 dặm phong cho Khổng Tử.
Sở Linh Doãn là Tử Tây nói :
- Sứ của vua, đi sứ ở cghư hầu, có ai bằng Tử Cống không ?
Đáp :
- Không có.
- Phụ tướng của vua, có ai bằng Nhan Hồi không ?
Đáp :
- Không có.
- Tướng quân của vua có ai bằng Tử Lộ không ?
Đáp :
- Không có.
-Thỉ tổ của Sở là bắt đầu từ nhà Châu, hể là Tử, Nam thì có 50 dặm đất, bây giờ Khổng Tử noi theo phép của ba đời vương tước, làm sáng tỏ sự nghiệp của Châu, Chiêu, nếu vua mà phong chức cho y thì nước Sở nầy đâu có thể đời đời có được mãi mấy ngàn dặm đất đai...
Trước kia Văn Vương ở đất Phong, Võ Vương ở đất Sào, làm vua trên đất 100 dặm, mà sau cùng nên nghiệp vương trong thiên hạ.
Này nay Khổng Khâu được đất đai, được đệ tử giỏi phụ giúp đó không phải là điều phước cho nước Sở vậy !
Chiêu Vương bèn thôi.)
Mùa thu năm ấy, Sở Chiêu Vương mất ở Thành phủ.
(Đoạn nầy giống như đoạn trên về việc Án Anh ngăn Tề Cảnh Công phong đất cho Khổng Tử, đó chỉ là ức thuyết của hậu nho muốn đề cao Khổng Tử mà thôi, trong sách Sử Ký Chí Nghi có dẫn chứng sự kiện rất rõ chứng minh là chuyện nầy không có thật, vì thế, đoạn nầy nên cắt bỏ cho hợp lý).
*
Kẻ cuồng nước Sở đi về phía xe Khổng Tử, ca mà đi ngang qua nói rằng :
- Phượng ơi ! Phượng ơi ! Đức tại sao lại suy như vậy ? Chuyện đã qua không thểhối được, chuyện đến không thể biết được...
Thôi rồi...thôi rồi...Bây giờ mà còn đi theo việc chánh là đã trể rồi vậy.
Khổng Tử xuống xe, muốn tiếp chuyện, người ấy rảo bước mà đi, không thể cùng nói được.
(Chuyện nầy trong thiên Vi Tử sách Luâïn Ngữ có chép. Chữ " tiếp dư " trong sách không phải là tên người, đó là người cuồng nước Sở, đi về phía xe của Khổng Tử.
Khổng Tử nghe thấy xuống xe muốn tiếp chuyện, nhưng người ấy bỏ đi như muốn lẩn tránh...Mới gặp nhau, thì làm sao biết được tên họ.
Hành động của người lạ ấy rất ngông, nên mới gọi là cuồng, đó là kẻ ẩn sĩ, giống như những người vác giỏ, bừa cào, lội nước đã kể ở trên...)
Khổng Tử liền (từ nước Sở) trở lại nước Vệ, năm ấy ông 63 tuổi, nhằm năm thứ 6 đời Lỗ Ai Công.
Năm sau, Ngô và Lỗ, hội nhau ở đất Cối, trưng bày trăm cổ, quan Thái tể triệu Quí Khương Tử, Quí Khương Tử khiến Tử Cống đến mà sau đó việc mới xuôi.
*
Khổng Tử nói :
- Việc chánh của Lỗ. Vệ là anh em vậy.
Lúc đó, vua nước Vệ là phụ thân của Triếp, không được lập lên ngôi, đang ở nước ngoài, chư hầu nghĩ rằng ông nhường ngôi.
Đa số đệ tử của Khổng Tử đều làm quan nước Vệ.
Vua Vệ muốn được Khổng Tử làm việc chánh.
Tử Lộ hỏi :
- Vua Vệ mời thầy làm việc chánh, thầy sẽ làm gì trước ?
Khổng Tử đáp :
- Trước hết là phải chánh danh vậy.
Tử Lộ nói :
- Tại sao lại có chuyện đó ? Thầy thật là lẩn quẩn...Tại sao lại phải chánh danh ?
Khổng Tử đáp :
- Do ơi ! Ngươi thật là quê mùa ! Danh không chánh thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì sự không thành...thì lễ nhạc không hưng được, thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng, thì dân sẽ lúng túng không biết phải hành động ra sao...
Là người quân tử, việc làm phải danh chánh, hễ nói là làm được, người quân tử đối với lời nói của mình, không thể có chỗ xem thường !
*
Năm sau, Nhiễm Hữu làm tướng soái cho Quí thị đánh với Tề ở đất Lang, thắng Tề.
Quí Khương Tử nói :
- Nhà thầy đối với việc quân lữ, học mà có, hay là do tánh sẵn có.
Nhiễm Lữ đáp :
- Tôi học với Khổng Tử.
Quí Khương Tử nói :
- Khổng Tử là người như thế nào ?
Đáp :
- Dùng người ấy thì có danh, truyền đạo người ấy ra bách tánh, đối với quỉ thần thì không có điều gì sơ sót. Nếu cần đến đạo ấy, thì dù cho có đông đến ngàn xã (ngày xưa cứ 25 nhà gọi là một xã) thì không đâu là không thông suốt.
Khương Tử hỏi :
- Ta muốn triệu ông ấy, có thể được không ?
Đáp :
- Như muốn triệu ông thì không nên dùng mực thước của tiểu nhơn, thì có thể được.
Lúc đó Khổng Văn Tử nước Vệ sắp đánh Thái Thúc, hỏi sách lược với Trọng ni.
Trọng Ni tìm cách từ chối, bảo là không biết, rồi rút lui ra đi.
Ông nói :
- Chim có thể chọn cây, cây có thể chọn chim được chăng ?
Văn Tử cố giữ, gặp lúc Quí Khương Tử đuổi Công Hoa, Công Tân, và Công Lâm, rồi dùng lễ rước Khổng Tử.
Khổng Tử liền về nước Lỗ.
Khổng Tử bỏ nước Lỗ ra đi, tính có đến 14 năm, sau đó mới trở về.
*
Lỗ Ai Công hỏi việc chánh.
Đáp :
- Việc chánh ở chỗ bọn bầy tôi...
Quí Khương Tử hỏi việc chánh.
Khổng Tử đáp :
- Nên ngay thẳng, chỉ cái sai của tà vạy, thì tà vạy trở nên ngay thẳng.
Quí Khương Tử lo ngại về việc trộm cắp.
Khổng Tử nói :
- Nếu không có lòng tham, thì dù cho có thưởng, cũng không ai chịu ăn trộm.
Nhưng Lỗ cũng vẫn không dùng được Khổng Tử, và Khổng Tử cũng không muốn làm quan.
Dưới thời Khổng Tử, nhà Châu suy vi, lễ nhạc bị phế, thi thơ thiếu. Tìm theo dấu lễ của Tam Đại (làm lời tựa cho Kinh Thơ, bắt đầu từ đời Đường Ngu, đi đến thời Tần Mục...biên việc có thứ lớp).
Khổng Tử nói :
- Lễ nhà Hạ, ta có thể nói được. Nhưng nước Kỷ, không còn đủ bằng chứng...Lễ nhà Ân ta có thể nói được, nhưng nước Tống không còn đủ bằng chứng.
Nếu có đủ, thì ta có thể nêu ra làm bằng chứng.
Xem xét cái hay cái dở của nhà Hạ, nhà Ân, Khổng Tử nói :
Đời sau, tuy cả 100 đời, cũng còn có thể biết được...Một là cái văn vẻ, còn một là cái chất...
Nhà Châu xem xét 2 đời trước, nên văn vẻ sáng rỡ, ta theo nhà Châu.
Làm lời tựa Kinh Thơ, trước bắt đầu từ thời Đường Ngu, biên chép việc có thứ lớp, cho nên Kinh Thơ và Lễ ký từ Khổng thị mà ra).
(Đoạn nầy viết về chuyện Khổng Tử định kinh Lễ, biên kinh Thơ, nhưng có sự lầm lẫn về trật tự, theo sách Sử ký thám nguyên thì trước hết là định kinh Lễ rồi sau đó mới là biên kinh Thơ.
Theo Tưởng Bá Tiềm thì cuốn kinh Lễ của Khổng Tử san định tức là cuốn Sĩ Lễ gồm 17 thiên, ngày nay gọi là Nghi Lễ...còn cuốn kinh Thơ do Khổng Tử biên soạn tức là quyển Thượng Thơ gồm 28 thiên.)
Khổng Tử nói với Lỗ Thái Sư :
- " Về Nhạc, có thể biết được...mới bắt đầu thì nhịp nhàng, rồi mở rôïng ra, thì thuần, kích động và êm ả mà thành.
Ta từ Vệ trở về Lỗ mà sau đó nhạc mới chánh, phần Nhã và Tụng trong kinh Thi được sắp xếp đúng chỗ. "
Thời xưa, kinh Thi có hơn 3000 thiên, cho đến Khổng Tử, bỏ những chỗ nặng nề, lấy chỗ có thể dùng vào việc Lễ, Nghĩa ; trên thì chọn ông Triết, Hậu Tắc, phần giữa thuật cái thạnh của thời Ân Chu, đến cái thiếu sót của thời U, Lệ...
Bắt đầu từ phong tục cho nên mới nói : " Cái rối loạn của chương Quan, Thư bắt đầu từ phần Phong, và chương Lộc, Minh là bắt đầu do thiên Tiểu Nhã...Chương Văn Vương bắt đầu cho thiên Đại Nhã, chương Thanh miếu là bắt đầu cho phần Tụng.
Khổng Tử đều phổ vào lời ca nhạc để hợp với nhạc Thiều võ và Nhã Tụng, Lễ, Nhạc từ đó mà được truyền thuật (để cho đầy đủ với Vương đạo, thành Lục Nghệ).
(Đoạn nầy trình bày Khổng Tử chánh Nhạc, chánh Thi, câu gần chót : "  Lễ, Nhạc từ đó mà được truyền thuật.. " là kết đoạn trên nói về phần Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, chưa đề cập đến kinh Dịch và Xuân Thu cho nên câu " để cho đầy đủ với Vương đạo, thành Lục nghệ " phải dời ra phần sau cho hợp lý).
Khổng Tử trở về già, thích kinh Dịch, làm tựa cho Thoán, Hệ, Tượng, Thiết quái, Văn ngôn.
Ông đọc kinh Dịch bìa da 3 lần đứt.
Ông nói :
- Như cho ta sống thêm được vài năm nữa, thì sẽ khá sáng tỏ về kinh Dịch.
(Theo sách " Sử Ký thám nguyên " thì đoạn nầy nên dời lại ở sau phần kế đây, để trên phần nói về sách " Xuân Thu " mới hợp lý, là vì việc đọc kinh Dịch và viết Xuân Thu là những việc làm vào lúc vãn niên của Khổng Tử, hơn nữa ông cũng không đem kinh Dịch và Xuân Thu dạy đệ tử.
Nếu dời đoạn trên đây ra phần sau, thì đoạn trên nói về việc định kinh Thơ, kinh Lễ, chánh kinh Thi, kinh Nhạc, sẽ liền với đoạn kế sau đây nói về việc Khổng Tử dùng Thi, Thơ, Lễ, Nhạc dạy học trò như thế ý văn sẽ liền lạc nhau.)
Khổng Tử dùng Thi, Thơ, Lễ, Nhạc dạy học trò đến 3000 (người thông lục nghệ có đến số 72) như trong số Nhan Thục Trâu đến thọ nghiệp rất đông.
Khổng Tử dạy 4 điều : Văn, Hạnh, Trung, Tín (cấm 4 điều : vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã, chỗ ông cẩn thận là : việc chay lạt, chiến tranh, và tật bịnh...
Phu Tử ít nói về chuyện lợi, chuyện mạng và chuyện nhơn).
Những người không phẫn chí, không mở mang, nói một mà không hiểu ba, thì không trở đi trở lại dạy nữa.
(Đoạn nầy nói về việc Khổng Tử dạy đệ tử. Sách Trọng Ni đệ tử truyện có viết : " Kẻ học mà thông được là 77 người, trong sách cũng có ghi 77 học trò ấy. "
Sách " Gia Ngữ đệ tử giải " cũng có ghi 77 tên học trò nhưng lại khác với sách kể trên.
Trong bức họa Gia miếu của Văn ông thì lại vẽ số học trò là 72 (thất thập nhị hiền).
Cao đệ của Khổng Tử, tương truyền là có hơn 70 người, nhưng con số chính xác thì mỗi thuyết đều khác nhau.
Trong phần trên có viết rõ ràng : " Dùng Thi, Thơ, Lễ, Nhạc dạy học trò " thì là chưa dạy đến kinh Dịch và Xuân Thu.
Tán kinh Dịch, sửa chữa kinh Xuân Thu, đều là những việc làm trong những năm cuối cùng của đời Khổng Tử, thì ông đâu có thể dùng 2 quyển sách ấy để dạy học trò được ?
Các Hán Nho cho rằng : " Kiêm thông lục nghệ " là một điều quí, thế nên mới viết như vậy...
Vì đây là một điều không có thật nên câu " thân thông lục nghệ, có 72 người " nên lược boỏ cho đúng.
Câu " cấm 4 điều...lợi, mạng và nhơn " câu nầy không phải là giáo điều để dạy đệ tử, và đoạn nầy cũng không cùng loại với các đoạn văn trên dưới, nên dời ra phía sau, dưới đoạn " thầy không nói... " cho hợp lý.
Ba ngàn học trò, 3000 là hư số để nói lên số học trò rất đông của Khổng Tử, không phải là số chính xác.
Chữ " thọ nghiệp " là nói số học trò đến học mà không có viết sách như Mạnh Ý Tử v.v...
Thi, Thơ, Lễ Nhạc, là tài liệu dùng dể dạy học, Văn, Hạnh, Trung, Tín là đường lối, là nội dung của việc dạy học.
Văn là văn chương, có trong Thi, Thơ, hạnh là hành vi, phẩm hạnh, Lễ dùng để huấn luyện hành vi, phẩm hạnh...Trung tín là đức tính cần thiết. Nhạc để đào luyện tánh tình, cho nên Lễ và Nhạc phải đi đôi.
Không phẫn chí học tập, không tiến bộ mở mang, là nói thiếu ý chí học tập.
Nói một mà không biết ba là nói người không chịu khó suy nghĩ, đó là nói về phương pháp dạy và học tập.)
*
Khổng Tử ở chốn Hương đảng, dường như không nói được gì, ở Tôn miếu, Triều đình, lời biện luận rất cẩn thận, khi đàm luận với Thượng Đại phu thì khảng khái rõ ràng, khi bàn với Hạ Đại phu thì thẳng thắn...vào chốn công môn thì cúc cung, bước tới rất ngay ngắn, chỉnh tề, vua gọi đến giúp lễ thì sắc nghiêm trang.
Vua có lịnh gọi, chẳng đợi gác xe mà đi liền.
Cá ươn, thịt hư, cắt không ngay không ăn, chiếu không ngay không ngồi, ăn gần kẻ có tang, không bao giờ ăn no, đó là ngày buồn thì không ca hát.
Gặp kẻ có tang, tàn tật, dù là trẻ con, cũng nghiêm sắc mặt (ba người cùng đi, tất có kẻ đáng là thầy ta) [đức mà chẳng trau dồi, học mà không thông, nghe điều nghĩa mà không sửa đổi được đó là điều lo của ta].
Bảo người xướng ca, nếu hay, thì bảo hát lại và sau họa theo. Phu Tử không nói về chuyện quái dị, sức mạnh, điều loạn và chuyện quỉ thần, cấm 4 điều : vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã...
Phu Tử ít nói về chuyện lợi, chuyện mạng, và chuyện nhơn.
(Đoạn nầy nói về thái độ, tư cách của Khổng Tử, khi ở triều đình, hương lý, và cách đối xử với người, trau dồi ngôn hạnh của ông...Đoạn nầy đều có chép trong sách Luận Ngữ.
Đoạn " cấm 4 điều... " sắp ở đây hợp lý hơn, nên dời từ đoạn trước đến đây.)
Tử Cống nói :
- Cái văn chương của Phu Tử, có thể nghe, học được, còn lời nói về tánh và Thiên đạo thì không thể nghe và học được.
Nhan Uyên thở ra than rằng :
- Ngửng lên nhìn thì thấy rất cao...xoi vào thì thấy rất cứng, nhìn thì thấy trước mặt, rồi bỗng nhiên lại ở phía sau...Phu Tử tuần tự mà dạy người, dùng văn mở mang cho chúng ta, muốn nghỉ cũng không được...đã dùng hết tài lực mình, dù cho được chỗ xuất sắc, mà muốn theo ông, cũng không biết phải theo từ đâu...
Đạt hạng đảng nhơn nói :
- Vĩ đại thay Khổng Tử...Bác học mà không thành danh ở chỗ nào cả.
Khổng Tử nghe mới nói rằng :
- Ta làm nghề gì bây giờ ? Đánh xe chăng ? Bắn cung chăng ?
Lao nói rằng :
- Khổng Tử có nói : Ta không làm thử cho nên không có nghề.
Đoạn nầy ghi lời người đương thời thán dương Khổng Tử).
*
Lúc về già, Khổng Tử thích Kinh dịch, ông đọc kinh Dịch, bìa da 3 lần đứt.
Ông nói :
- Như ta còn sống vài năm nữa, thì ta sẽ làm sáng tỏ về kinh Dịch.
(Đoạn nầy nói về việc Khổng Tử học kinh Dịch, từ phần trên dời xuống đây cho hợp lý).
Mùa Xuân, năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công, đi tuần thú ở Đại dã người đánh xe của Thúc tôn thị là Thư Thương bắt được con thú, cho là điềm bất thường.
Trọng Ni xem và nói rằng :
- Con Kỳ Lân đó
.
Ông giữ và nói :
- Sông Hà không có Đồ...đất Lạc không có Thư (Hà Đồ, Lạc Thư) ta hết rồi vậy !
Nhan Uyên chết.
Khổng Tử nói :
- Trời hại ta.
Và khi đi thú về phía Tây, gặp Kỳ Lân ông nói :
- Đạo ta đã cùng rồi.
Ông thở ra than :
- Không có ai hiểu ta chăng ?
Tử Cống nói :
- Tại sao lại không hiểu thầy ?
Khổng Tử nói :
- Chẳng oán trời, chẳng trách người. Học với kẻ dưới mà đạt đến trên, hiểu ta...chỉ có trời thôi sao ! (không xuống chí, không nhục thân mình, Bá Di, Thúc Tề chăng ? Hay là Liểu Hạ Huệ, Thiếu Liên xuống chí, nhục thân ?) [Ngu Trọng, Di Dật, ẩn cư, lời nói phóng khoáng, thân trong sạch, bỏ chức quyền] (Ta thời khác thế, chuyện gì cũng được...mà chuyện gì cũng không)...
Khổng Tử nói :
- Thôi vậy...thôi vậy...Người quân tử bịnh qua đời mà danh không xưng vậy...
Đạo ta mà không hành được...thì ta còn mặt mũi nào đối với hậu thế ?
Liền nương theo Sử ký, viết kinh Xuân Thu, trên bắt đầu từ thời Ẩn công, dưới đến thời Thập nhị công.
Căn cứ theo Lễ, gần nhà Châu, theo nhà Ân, thông 3 đời Tam Đại, lời văn gọn mà ý rộng, giúp Vương đạo đầy đủ, hoàn thành Lục Nghệ...cho nên khi vua Ngô, Sở tự xưng vương mà sách Xuân Thu mới chê gọi bằng chữ " Tử ".
Hội Tiểu thổ thật là triệu Thiên Tử mà sách Xuân Thu viết huý ra là : " Thiên vương đi tuần thú ở Hà dương... "
Suy lại ấy để làm mẫu mực đương thời, có ý nghĩa chê bai...Đời sau, các vì Vương giả khởi lên mà suy nghĩ.
Nghĩa của kinh Xuân Thu thi hành được thì loạn thần, tặc tử trong thiên hạ đều sợ.
Khổng Tử trong việc lập đức, đọc văn từ, có chỗ cộng đồng cùng người mà không độc hữu.
Về việc viết sách Xuân Thu hễ đáng ghi thì ghi, bớt thì bớt, bọn Tử Hạ không thể thêm bớt một lời.
(Đệ tử học Xuân Thu).
Khổng Tử nói :
- Hậu thế biết Khâu nầy qua sách Xuân Thu, mà cũng bắt tội Khâu nầy qua sách Xuân Thu.
(Đoạn nầy chép về chuyện Khổng Tử viết sách Xuân Thu.
Viết kinh Xuân Thu là một đại sự trong đời Khổng Tử cho nên mới ghi lại một cách trịnh trọng như trên. Những đoạn trong dấu ngoặc lầm lẫn nên bỏ.)
 
Hình 3. KHỔNG LÂM
Trích trong : Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê 
(Rút ở Confucius et l'Humanisme Chinois của P. Đỗ Đình)

  Năm sau, Tử Lộ mất ở nước Vệ.
Khổng Tử bịnh, Tử Cống xin ra mắt, lúc đó Khổng Tử đang chống gậy thong thả ngoài cửa, ông nói :
-  Tử ơi, sao ngươi đến trễ vậy ?
Khổng Tử than thở và ca rằng :
- Thái Sơn lở chăng ? cây cột xiêu chăng ? Triết nhơn tàn rụi chăng ?
Rồi ông sa nước mắt.
Ông bảo Tử Cống :
- Thiên hạ vô đạo đã lâu rồi, không có ai nối cho ta...Nguời nhà Hạ tẩn liệm ở phía Đông, người nhà Châu thì ở phía Tây, còn người nhà Ân thì ở giữa 2 cột trụ.
Đêm qua, ta nằm mộng thấy ngồi ở giữa cột trụ, ta là người nhà Ân vậy.
Bảy ngày sau, Khổng Tử mất...
Khổng Tử 73 tuổi, mất vào ngày Kỷ Sửu tháng 4 đời Lỗ Ai Công thứ 16.
(Về đoạn nầy, Đỗ Dự đã ghi chép trong Tả truyện : tháng 4, ngày 18 Kỷ Sửu, tháng 4 không có ngày Kỷ Sửu, Kỷ Sửu là ngày 12 tháng 5, như vậy là có sự lầm lẫn về ngày tháng...
Xét theo trong lịch, thì năm 16 thời Ai Công có tháng nhuần, cho nên Thôi Thích nói, tháng 4, nên ghi là tháng 3 mới đúng.
Giang Vĩnh lại nói : Kỷ Sửu, nếu theo lịch nhà Châu thì là ngày 11 tháng 4, còn theo lịch nhà Hạ thì 11 tháng 2. [Nhà Châu kể tháng 11 là tháng giêng, tháng Tý] các thuyết đều khác nhau, chưa có thể khảo định được...
Có điều là ngày sanh, tử của các Chư Tử dưới thời Chu Tần, duy chỉ có Khổng Tử là có chứng cớ khá rõ rệt mà thôi.
Lỗ Ai Công năm thứ 16, nhằm năm Nhâm Tuất, vào thời Châu Kỉnh vương thứ 41, đúng năm 479 trước Tây lịch.)
Ai Công làm lời lụy rằng :
-"Trời cao không giúp, chẳng gượng để một bực già lại, để cho ta một mình tại vị, làm cho ta đau đớn...Ô hô ! Ai tai ! Ni Phụ ơi ! Từ đây có ai để làm gương mẫu...
Tử Cống nói :
- Vua có bị mất gì ở nước Lỗ không ? Lời Phu Tử có nói : Lễ mất thì tối tăm, danh mất thì sai lầm, mất chí là tối tăm, mất chỗ tựa là sai lầm.
Khi còn sống thì không dùng được, đến lúc chết lại làm lời lụy, không phải lễ vậy. Xưng là ta...không đúng với danh vậy.
Khổng Tử được chôn ở phía Bắc Lỗ thành, trên sông Tứ.
(Sách Khổng đình trích yếu chép lễ an táng nhằm ngày mùng 9 tháng 6, chôn trên sông Tứ, hợp táng với phu nhơn là Thượng quan thị.
Ngày nay, ở phía Bắc huyện Khúc phụ, cách 2 dặm, có Khổng lâm tức là mộ Khổng Tử, vùng đất ấy, phía sau lưng là sông Tứ, phía trước mặt là sông Thù, xung quanh có tường bao kín.
Sách Hoàng Lãm có viết, trong số đệ tử của Khổng Tử có nhiều người ở nước khác nhau, nên mỗi người đem loại cây đặc biệt ở nước mình đến trồng, thế nên quanh mộ có nnhiều loại cây lạ.
Phu nhơn Khổng Tử là người nước Tống...)
Đệ tử đều (tang phục 3 năm) Tâm tang 3 năm xong, liền chia tay nhau ra đi, khóc ròng, mỗi người đều rất buồn, hoặc có kẻ ở lại, duy Tử Cống cất nhà ở bên mộ 6 năm rồi sau mới đi.
Đệ tử và người nước Lỗ đến bên mộ cất nhà ở có hơn cả 100 vì thế mới gọi là xóm Khổng.
(Sách Đàn cung có viết : về tang lễ của Khổng Tử, đệ tử không hiểu phải để tang như thế nào.
Tử Cống nói :
- Ngày xưa, Phu Tử làm lễ tang cho Nhan Hồi, như là làm lễ tang cho con mà không tang phục...đến đám tang của Tử Lộ cũng như thế.
Bây giờ chúng ta làm lễ tang cho Phu Tử, cũng như cha mà không tang phục.
Châu Tử có viết : "Thờ thầy để tâm tang 3 năm...buồn như để tang cha mẹ mà không tang phục, tình thì tột mà nghĩa thì không tận".
Vì thế câu "tang phục 3 năm" là sai nên bỏ.
Trong sách Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công có viết :"Ngày xưa Khổng Tử mất, sau 3 năm, môn nhơn mới sắp sửa ra về, vào xá từ giã Tử Cống mà khóc đến khan tiếng, sau đó mới ra về.
Tử Cống trở lại, cất nhà ở tại chỗ, 3 năm mới về".
Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tử Cống là giàu hơn hết, nên tang lễ của Khổng Tử nhờ sức của Tử Cống rất nhiều, lúc mới bắt đầu tang lễ, đã cất nhà gần mộ để cho bạn đồng môn ở, lúc vào xá từ giã là vì Tử Cống là chủ.)
*
(Trong Khổng môn, thầy trò bàn luận rất thường, và tư nhân dạy học, Khổng Tử là người đầu tiên, chủ trương về giáo dục của ông là trọng về phần nhơn cách, việc thầy trò thường bàn luận với nhau, cho đến bây giờ chắc chẳng có mấy ai làm được.
Thầy trò bàn luận với nhau, bình đẳng như là bằng hữu nhưng về phương diện tình cảm thì như cha con, đó là điều đặc biệt đối với số hơn 70 người học trò thân cận...
Ngày nay, thầy trò đối xử nhau như khách qua đường, thậm chí có khi xem nhau như là kẻ thù, đạo thầy trò suy đồi, trách nhiệm tại đệ tử, tại thầy và cũng tại kẻ cầm vận mạng quốc gia.)
Nước Lỗ đời đời truyền nhau, đúng năm tháng phụng tự mộ Khổng Tử, mà chư nho cũng dạy lễ, hội họp, luyện tập ở bên mộ Khổng Tử.
Một vùng đất lớn bên ngôi mộ, chỗ ngôi nhà của đệ tử ở, đời sau nhơn đó làm ngôi miếu thờ, cất giữ luôn y quan, đàn, xe và sách của Khổng Tử ở đó.
Đến đời Hán, liên tiếp hơn 200 năm không dứt. Cao hoàng đế qua nước Lỗ, dùng Lễ Thái lao cúng tế, chư hầu, khanh tướng đến, thường ra mắt miếu trước rồi sau mới đi lo việc chánh.
Đoạn nầy chép về việc người đời sau sùng bái và tế tự Khổng Tử...Tiểu sử Khổng Tử đến đây chấm dứt, phần sau là phụ thêm con cháu của Ngài...)
Khổng Tử sanh Lý, tự Bá Ngư, Bá Ngư 50 tuổi, chết trước Khổng Tử.
(Trong sách Gia ngữ, thiên Bổn tánh giải có chép : Khổng Tử 19 tuổi cưới vợ ở nước Tống là Thượng Quan Thị được một năm sanh con, nhơn dịp Chiêu Công đem tặng cá Lý nhơn đó mới đặt tên con là Lý, tự Bá Ngư...
Lúc 20 tuổi, Khổng Tử chưa đạt, thế nên việc Chiêu Công cho cá Lý là không có bằng chứng xác thực đáng tin. Khổng Tử sanh Lý vào năm 20 tuổi, nhằm năm thứ 20 Chiêu Công, Lý chết vào năm 50 tuổi, Khổng Tử được 69 tuổi nhằm năm thứ 12 thời Ai Công.)
Bá Ngư sanh Cấp, tự Tử Tư, sống được 62 tuổi, thường bị khốn đốn ở nước Tống, viết sách Trung dung.
(Sách Trung dung thấy trong pho Lễ ký của Tiểu Đái...
Trong thiên Chư Tử lược của sách Hán thư Nghệ văn chí, về phần Nho gia có chép sách của Tử Tư gồm 23 thiên...
Vương phục Lễ xét rằng, Tử Tư sống 82 tuổi mới đúng, 62 tuổi là chép lầm). [Xem Tứ thơ khoán ngôn của Mao Kỳ Linh]
Tử Tư sanh Bạch, tự Tử Thượng, được 47 tuổi, Tử Thượng sanh Truật, tự Tử Gia, được 45 tuổi, Tử Gia sanh Cơ, tự Tử Kinh, được 46 tuổi, Tử Kinh sanh Xuyên, tự Tử Cao, được 51 tuổi, Tử Cao sanh Tử Thận làm tướng nước Ngụy.
Tử Thận sanh Phụ, được 57 tuổi, làm Bác sĩ cho vua Trần là Thiệp, và chết ở nước Trần.
Em của Phụ là Tử Tương, được 57 tuổi, làm bác sĩ cho Hiếu Công Hoàng Đế, rồi dời sang Trường Sa làm Thái thú, ông cao 9 thước 6 tấc.
Tử Tương sanh Trung, được 57 tuổi, Trung sanh Võ, Võ sanh Diên Niên và An Quốc cũng làm Bác sĩ cho vua, rồi làm Thái thú Lâm Hoài và mất sớm ở đó.
An Quốc sanh Cung, Cung sanh Hoan.
*
Trở lên, phần tiểu sử của Khổng Tử chép theo tài liệu Khổng Tử thế gia trong pho Sử ký của Tư Mã Thiên.
Đây là tài liệu rõ ràng nhứt, đáng tin cậy nhứt về tiểu sử của Khổng Tử, tài liệu nầy ghi rõ ngôn, hạnh của người, đại để đều dùng sách Luận Ngữ làm chủ, rồi lại tìm thêm tài liệu ở các nơi khác, những lời truyền thuyết, những mẫu chuyện lạ...cũng được gom góp vào làm sử liệu.
Có điều đáng chú ý là những điều ghi trong sách Luận Ngữ, cũng không đáng tin cậy hoàn toàn...như thế thì gom thêm vào những lời truyền thuyết, làm sao tránh khỏi những sai lầm cho được.
Kế đó có nhiều câu, chữ lộn xộn, phần dưới đem lên trên, trên lộn xuống dưới, có chỗ bị mất chữ, chỗ lại thừa, thế nên trong tài liệu nầy có tham khảo thêm nhiều tài liệu khác để chỉnh đốn lại với ý định được hoàn chỉnh đến mức nào hay mức ấy.
*
Tóm lại, thì gia đình Khổng Tử trước kia, thuộc vào hàng quí tộc ở nước Tống, rồi sang nước Lỗ, thành giới bình dân, từ trước đời Khổng Tử chưa từng có một nhà học giả nào vĩ đại bằng ông.
Tổng kết sự nghiệp ông, thì có các phương diện chánh trị, giáo dục và sáng tác.
Về phương diện chánh trị, ông chỉ làm quan ở nước Lỗ một thời gian ngắn, chưa thỏa mãn được chí lớn của mình về phương diện giáo dục, trước tác, thì trước Khổng Tử chưa có tư nhân dạy học và tư nhân trước tác.
*
Trong thiên học nhi, sách Luận Ngữ có chép lời tự thuật của Khổng Tử : "Ta 15 tuổi mà đã có chí với việc học, 30 tuổi mà lập thân", như thế từ nhỏ đến 30 tuổi là Khổng Tử chỉ lo việc học hành.
Sách Gia ngữ có viết "Khổng Tử bắt đầu mở trường dạy học ở Hương lý, Nhan Lộ là phụ thân của Nhan Uyên thường đến học".
Trong Khổng Tử thế gia có viết : Khổng Tử qua nhà Châu xem sách, rồi sau khi trở về nước Lỗ, đệ tử càng đông, mặc dù ông qua nhà Châu, chưa xác định được nhằm năm nào nhưng, chắc chắn là lối thời Chiêu Công năm thứ 24...cho nên sau 30 tuổi và trước 50 tuổi, đó là thời kỳ ông bắt đầu dạy học.
Vào năm Định Công thứ 9, Khổng Tử làm Trung đô tể, rồi từ đó lên chức Tư Không, Tư Khấu, dự vào việc chánh nước Lỗ.
Rồi vào năm Định Công thứ 12, lúc đó ông được 54 tuổi, Khổng Tử rời nước Lỗ. Trong thời gian 4 năm ấy, đó là thời kỳ ông làm chánh trị.
Sau khi rời nước Lỗ, Khổng Tử châu du qua các nước Vệ, Tống, Tào, Trịnh, Trần, Thái, lận đận lao đao, không được ở lâu, yên ổn ở một chỗ nào. Ông đã gặp nạn ở đất Khuôn, bị Hoàn Đồi mưu hại, tuyệt lương ở giữa khoản Trần Thái, bị kẻ ẩn sĩ mỉa mai.
Mặc dù trong thời kỳ ấy có lúc ông trở về nước Lỗ, nhưng vẫn không ở được yên nơi, yên chốn.
Đến năm Ai Công thứ 12 (486 trước Tây lịch) ông mới trở về Lỗ, sống luôn cho đến lúc qua đời.
Trong thời gian 14 năm kể trên, đó là thời gian Khổng Tử đi châu du khắp nơi, đệ tử đi theo cũng đông, y như lãnh tụ của một chánh đảng ngày nay dẫn dắt môn đệ đi hoạt động chánh trị vậy.
Mặc khác, Khổng Tử cũng tìm dịp thuận tiện, bất câu lúc nào, hay ở đâu, tìm cách dạy học, mặc dầu trong lúc nguy khổn, cũng vẫn dạy học, đàn hát không ngưng...
Sau khi trở về nước Lỗ, ông chuyên tâm về việc dạy học và trước tác, mà nhứt là việc trước tác.
Ông biên soạn sách Thượng Thơ để gìn giữ sử liệu đời cổ đại, định sách Sĩ Lễ 17 thiên để dạy đệ tử, chánh kinh Nhạc, chánh kinh Thi, 4 quyển sách ấy đều do tự tay Khổng Tử biên soạn để làm tài liệu dạy học.
Ông đọc Chu Dịch và làm lời truyện cho Thoán, Tượng, căn cứ theo sử nước Lỗ, viết thành quyển Xuân Thu...
Hai tác phẩm sau, là Khổng Tử giũa gọt quan thơ để thành nên sự nghiệp xuất sắc đặc biệt cho mình.
Mặc dù Khổng Tử đã nói :" Chỉ thuật mà không viết gì". Nhưng sự thật ông lấy sự "thuật" làm trước tác...cho nên trong thời gian ấy, có thể nói là thời kỳ trước thuật của Khổng Tử.
*
Khổng Tử tuy có làm chánh trị, nhưng vẫn không thực hiện được lý tưởng chánh trị của mình. Ông cũng đã trước thuật, nhưng vẫn thuật mà không có trước tác.
Hậu nho đối với việc sáng thuật Lục kinh của Khổng Tử, đều có những ý kiến khác nhau, duy chỉ có một điều không ai có thể chối cãi được là sự nghiệp giáo dục của Khổng Tử rất vĩ đại, và vĩ đại nhứt là tinh thần của ông trong việc giáo dục "học không mỏi, dạy không mệt". Sáu chữ trên nói lên được rõ ràng tinh thần của ông, trong việc giáo dục, nhờ thế mà ông lập nên sự nghiệp vĩ đại, lưu truyền cho đến ngày nay.
Nền giáo dục có mục đích làm cho người thông đạt, biết lập thân và trở thành người tốt, hữu dụng.
Có tinh thần phấn phát không biết mệt mỏi là có quyết tâm, có chí lớn.
Lập thân cho mình, lại muốn lập thân cho kẻ khác, muốn mình thông đạt rồi lại làm cho kẻ khác thông đạt, tự mình học tập đi đến chỗ dạy người, từ chỗ không chán nản mà không bao giờ thấy mệt mỏi, đó là lòng rộng rãi bao la, biết thương yêu mọi ngưòi. Vì thế cho nên Tăng Tử mới nói :"Cái đạo của Phu Tử Trung Thứ mà thôi vậy".
Sở dĩ Khổng Tử trở thành bậc đại thánh, là nhờ ở những đức tánh ấy, các môn đệ cảm phục, kính yêu Khổng Tử là cũng nhờ ở những đức tánh ấy, cho nên mới ghi lại tất cả những lời nói, việc làm, thái độ, nếp sống của Ngài để thành pho Luận Ngữ.
Đệ tử ghi chép lời nói của thầy để thành một pho sách, đây là lần đầu tiên thấy trong lịch sử, vì thế mới sắp Khổng Tử là người đầu tiên trong Chư Tử...và trong các tác phẩm của Chư Tử, pho Luận Ngữ, cũng là pho sách đứng hàng đầu, người đời sau dùng chữ Nho để đặt tên cho học phái của Khổng Tử là rất đúng, vì chữ Nho bao hàm những ý nghĩa tốt đẹp đã kể trên.
*
Về Kinh, các nhà học giả thời nay cho rằng do Khổng Tử trước tác, còn các nhà học giả thời xưa thì lại cho rằng Lục Kinh là sách xưa của ông Châu Công và đó là quan thơ, không phải do Khổng Tử trước tác, trong quyển Thập Tam Kinh Khái Luận của Tưởng bá Tiềm có viết rõ về vấn đề nầy.
Thiên Học nhi trong sách Luận Ngữ có viết : "Học mà thường tập cũng chẳng vui vẻ sao ? Có bạn bè từ phương xa đến cũng chẳng thích sao ? Người không biết mà không giận, cũng chẳng là quân tử sao ? "
Học để biết cái mới, tập để ôn cái cũ, học tập mà có tâm đắc, thì nội tâm vui sướng, muốn thôi cũng không được, mà cũng không thấy chán nản.
Trong sách Bạch Hổ thông nghĩa có chép :" Thầy và trò có cái đạo bằng hữu" cho nên mới có câu "Có bằng hữu từ phương xa đến" tức là trong đoạn sách Thế Gia chép "Đệ tử ngày càng đông, từ phương xa đến, không ai là không thọ nghiệp...
Cái vui khi bạn bè đến, đó cũng là một cái vui trong 3 cái vui của người quân tử, đó là ý của Mạnh Tử khi được giáo dục kẻ anh tài trong thiên hạ.
Người không biết mà không giận, chẳng phải là người thờ ơ, chẳng chú tâm đến việc gì cả...mà là người khiêm nhượng, kiên nhẫn, chỉ lấy việc giáo dục người làm điều vui cho mình...
Bạn bè từ phương xa đến, tri thức không đồng đều, có người chậm chạp thiếu hiểu, cũng không vì đó mà giận, và nếu không giận thì có kiên nhẫn để dạy dỗ đúng như lời Khổng Tử đã nói "học không chán, dạy không mệt"...Vì lẽ đó mà khi viết sách Luận Ngữ, các đệ tử đã viết trước tiên trong thiên Thuật nhi câu :"thầy có nói : Yên lặng suy nghĩ mà biết...học không mỏi, dạy không mỏi, những điều đó ta có chăng ?
Làm hết bổn phận mình là "Trung" xét mình và xét người là Thứ...Chuyện gì mình không muốn đừng làm cho người khác, đó là cái đạo "Thứ" tiêu cực, còn "chuyện gì mình muốn, thì cũng làm cho người khác" đó là đạo "Thứ" tích cực.
Đạo của Khổng Tử là "đạo người" mà cũng là đạo của lòng nhơn cho nên Tăng Tử mới nói :"Đạo của Phu Tử là Trung và Thứ mà thôi".
xxxxxxxxxx
Hình 4. THẤT THẬP NHỊ HIỀN
Trích trong : Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (quyển Hạ trang 81)
(Theo Confucius et l'Humanisme Chinois của P. Đỗ Đình)
 Phần Hai 
*
Thân thế Bách Gia Chư Tử
2. Các đệ tử của khổng tử
A - 1. Hữu Nhược  -  2. Tăng Sâm  -  3. Bốc Thương  -  4. Đoan Mộc Tứ  -  5. Phàn Tu  -  6. Ngôn Yển  -  7. Nhan Hồi  -  8. Trọng Do  -  9. Chuyên Tôn Sư  -  10. Nhiễm Cầu  -  11. Tể Dư  -  12. Công Dã Trường  - 13. Mật Bất Tề  -  14. Nhiễm Ung  -  15. Tất Điêu Khai  - 16. Công Tây Xích  -  17. Nguyên Hiến  -  18. Mẫn Tổn  -  19. Tư Mã Canh  -  20. Nhiễm Canh  -  21. Vu Mã Thi  -  22. Nhan Vô Do  -  23. Cao Sài  -  24. Tăng Điểm
B - 1. Nam Dung  -  2.Thân Tranh  -  3.Trần Cang  - 4.Lao  -  5.Thiềm Đài Điệt Minh  -  6.Công Bá Liêu  -  7.Lâm Phóng  - 8.Nhụ Bi  -  9.Mạnh Ý Tử.
1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử.
Khổng Tử mở đầu phong trào dạy học tư nhơn, tụ tập học trò rất đông, và ông dạy không bao giờ biết mệt mỏi...Học trò noi theo đạo thầy làm cho học phái hưng thịnh thêm : đó là phái Nho gia.
Lúc đầu thời Chiến quốc, đó là thời kỳ toàn thạnh của Nho gia, cho nên khi nhắc đến Chư Tử của thời ấy, là không thế nào không đề cập đến các đệ tử của Khổng Tử...mà Mạnh Tử là người được kể là người cao đệ trong số hơn 70 đệ tử của Khổng Tử.
Phần Khổng Tử Thế Gia trong sách Sử Ký có viết : " Khổng Tử dùng Thơ, Thi, Lễ Nhạc để dạy ".
Số đệ tử có đến 3000. Người thông Lục nghệ có 72 như nhóm Nhan Thục Trâu đến thọ nghiệp rất đông...như thế thì cao đệ của Khổng Tử có đến 72 người.
Trong sách Trọng Ni đệ tử liệt truyện có viết : " Kẻ thọ nghiệp mà thông, có đến 77 người ".
Chữ thông đây có nghĩa là thông Lục Nghệ (Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu).
Kiểm lại số người có chép trong sách quả đủ số 77, so với tài liệu Thế gia thì thấy nhiều hơn 5 người.
Tại sao lại có sự sai biệt như thế ? Hay là tài liệu Thế gia chỉ ghi những người tinh thông đầy đủ Lục nghệ, còn sách Liệt truyện không có ghi đủ mấy chữ " thông Lục nghệ ".
Cũng có người cho rằng số 5 người ấy chỉ là những người hay lui tới thọ nghiệp chớ chẳng phải là những môn đệ chánh thức chăng ?
Có điều đáng chú ý là Nhan thục Trâu, một môn đệ không chánh thức không thấy ghi tên trong sách Liệt truyện.
Trong quyển " sách Ẩn " có viết : Sách Khổng Tử gia ngữ có viết số môn đệ là 77 nhưng trong pho Gia miếu đồ của Văn Ông thì lại vẽ 72 người học trò.
Tài liệu Thế gia và Gia miếu đồ giống nhau, sách Liệt truyện và Gia ngữ giống nhau. Có điều đáng chú ý là trong quyển Gia ngữ bản mới ở thiên " Thất thập nhị đệ tử bi " phần sau cùng có viết : Sau đây là 72 người đệ tử của Phu Tử đều đến mức " thăng đường, nhập thất " (học đến nơi đến chốn).
Mặc dù viết như thế, nhưng số tên người chép phía sau lại tới 77 ! Qua chứng cứ trên, ta thấy sách Sử ký và Gia ngữ đều có những chỗ mâu thuẫn.
Tại sao lại có chuyện ấy ?
Sách " Sử ký thám nguyên " viết : " Có người trong truyện nầy không chép, nhưng lại thấy trong Luận Ngữ, đó là tên " Lao ", trong phần Thế gia có chép thêm 2 tên người đó là Mạnh ý Tử, Nhan thục Trâu ", dường như Mạnh ý Tử không phải là đệ tử, Lao và Nhan thục Trâu trong sách truyện không có ghi, nếu hợp tất cả tên có ghi trong các sách lại thì có đến 79 người "
Nếu xét kỹ số người đệ tử có ghi trong quyển Đệ tử truyện thì có một số khá đông, không thấy có tên trong sách Luận Ngữ. Nếu căn cứ theo Luận Ngữ, thì có một số người khộng phải là đệ tử, và cũng có một số người khác đáng nghi ngờ.
Trong các sách của Khổng môn, quyển Luận Ngữ là đáng tin hơn hết, còn Mạnh Tử nói " 70 học trò " chắc là chỉ muốn nói số tròn cho gọn.
Bây giờ, tốt hơn hết là dùng sách Luận Ngữ làm căn cứ, phối hợp với các sách Sử ký, Gia ngữ để tìm hiểu về các đệ tử của Khổng Tử...như thế có phần ổn hơn.
Theo sách Sử ký và Trọng Ni đệ tử liệt truyện thì số học trò có ghi tên đến 77, được phân làm 2 lớp.
1.- Lớp thứ nhứt là những người có tên, tuổi, việc học thấy có ghi trong sách vở, tổng cộng số nầy có tất cả là 33 người.
2.- Lớp thứ hai, là những người không có ghi tên, có đi học mà không thấy tên được nhắc trong sách vở, số nầy tổng cộng 44 người.
Thật ra, trong số người ở lớp thứ nhứt, cũng có 8 người không thấy được nhắc tên trong sách Luận Ngữ, đó là Công tích Ai, Thương Cù, Nhan Hạnh, Nhiễm Nho, Tào Truất, Công tôn Long, Bá Kiều.
Trong lớp thứ hai lại có hai tên người thấy trong Luận Ngữ, nhưng danh tánh lại khác nhau, đó là Thân Đảng, tức trong Luận Ngữ gọi là Thân Tứ, Nguyên cang Tịch, tức trong Luận Ngữ gọi là Trần Cang.
Trong Luận Ngữ cũng có 4 tên người không thấy ghi trong sách Đệ tử truyện đó là : Lao, Lâm Phóng, Nhu Bi, Mạnh ý Tử.
Lược khảo về đệ tử của Khổng Tử, căn cứ theo Luận Ngữ là chắc chắn hơn hết, nên xin theo thứ tự trong Luận Ngữ, liệt kê những nhân vật như sau :
 
1. Hữu Nhược.
Trong thiên Học nhi, thiên thứ nhứt của Luận Ngữ, chương đầu ghi lời nói của Khổng Tử, chương hai là ghi lời của Hữu Tử.
Hữu Tử tên là Hữu Nhược, sách tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Là người nước Trịnh " (Trịnh Huyền có sách Mục lục về đệ tử của Khổng Tử, nhưng sách đã mất).
Sách Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 13 tuổi, sách Chánh nghĩa lại dẫn lời sách Gia ngữ viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 33 tuổi ".
Ấn bản mới của sách Gia ngữ thiên đệ tử giải có viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi ". Trong các sách khác như Lễ ký, sách của Khổng Dĩnh Đạt thì lại ghi " Nhỏ hơn Khổng Tử 43 tuổi ".
Các thuyết đều khác nhau, không biết đâu là đúng.
Sách Đệ tử có chép : " Khổng Tử đã mất, đệ tử nhớ thương, Hữu Nhược hình dáng giống Khổng Tử, đệ tử đồng ý với nhau lập Hữu Nhược làm thầy, rồi thờ như thờ lúc Khổng Tử còn sống. "
Sách Gia ngữ lại chép Khổng Tử tiên tri, biết trời sẽ mưa, và Thượng Cù sẽ có 5 người con, đó là những điều truyền thuyết huyền hoặc của hậu nho đề cao Khổng Tử một cách vụng về và nhơn đó để so sánh Hữu Nhược không thể nào bằng Khổng Tử được...
Sách Luận Ngữ nhắc đến các đệ tử, dùng chữ " tử " (thầy) để gọi, duy chỉ có hai người mà thôi : đó là Hữu Nhược và Tăng Tử.
Hữu Nhược được tất cả các đồng môn tôn xưng, sách Lễ ký có viết : Lời nói của Hữu Nhược giống như Khổng Tử, sách Đệ tử truyện lại viết : Hình trạng ông giống Khổng Tử, vì thế mà tất cả môn đệ đều lập ông lên làm thầy...như thế thì " trông diện mạo mà chọn người " vậy.
Thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử có viết về sau cái chết của Khổng Tử :
" Ngày nọ, Tử Hạ, Tử Du, Tử Trương, vì thấy Hữu Nhược giống như thầy mà muốn thờ Hữu Nhược như thờ thầy nên bắt ép Tăng Tử theo.
Tăng Tử nói :
- Không nên...Sông Giang, Hán đã gột rửa, nắng thu đã hong sấy, nên sáng rỡ, không thể nào được như thế !
Quả thật chuyện đó đã có bàn đến, nhưng bị tăng Tử không đồng ý nên Hữu Nhược không được tôn...
Tăng Tử chỉ nói Khổng Tử không có ai so sánh được, không thể suy tôn một người nào để kế vị, chớ không phê phán một lời nào về Hữu Nhược cả.
Trong Sử ký có chép : Khổng Tử là người học rộng, biết nhiều, không việc gì mà không biết...Nhơn đó mà người đời sau phụ họa cho rằng Khổng Tử tiên tri để quá khen ông một cách vụng về.
Hữu Tử, họ Hữu mà tên Nhược, dường như không có gì đáng nghi cả.
Trong sách Lộ sử chép " Hữu thị là hậu duệ Hữu sào thị nhưng Hữu sào thị chỉ là một danh từ tuợng trưng chỉ người thời thượng cổ làm ổ trên cây mà ở, chớ không phải ở thời ấy có dòng Đế vương tên họ như thế.
Thời thượng cổ cũng có những tên : Hữu hùng thị, Hữu nga thị, Hữu hộ thị, Hữu tô thị, rồi Hữu Ngu, Hữu Hạ, Hữu Ân, Hữu Châu, nhưng chữ Hữu ở đây chỉ là " phát ngữ từ " mà thôi.
Từ xưa đến nay, ở Trung Hoa chưa bao giờ nghe ai có họ Hữu cả.
Sách Gia Ngữ Đệ Tử Giải có viết : Hữu Nhược, người nước Lỗ, tự là Tử Hữu như thế là tên Nhược, còn tự là Tử Hữu chớ không phải họ Hữu.
 
2. Tăng Sâm.
Sách Luận Ngữ, thiên Học nhi, chương tư, có ghi lời Tăng Sâm, và cũng gọi là Tăng Tử.
Tăng Sâm tự Tử Dư, trong Đệ tử truyện và Gia ngữ đều ghi nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi, người ở Nam Võ thành, tức hiện nay thuộc tỉnh Sơn Đông, phía Tây Nam, cách Phí huyện 90 dặm.
Quyển " sách Ẩn " có viết : " Đất Võ thành thuộc nước Lỗ, lúc đó cũng có Bắc Võ thành, cho nên mới ghi rõ là Nam Võ thành ".
Như thế thì Tăng Tử cũng là người nước Lỗ. Tăng Tử là người nỗi tiếng có hiếu, thiên Thái Bá trong sách Luận Ngữ có viết : " Tăng Tử có bịnh, triệu môn đệ tử vào nói : " Mở chưn cho ta, mở tay ta (xem coi có gì lạ không). Kinh Thi viết : Nơm nớp lo ngại như đi gần vực sâu, như bước trên giá mỏng ". Từ nay trở đi ta mới biết là khỏi vậy các người ơi !
Trong Hiếu kinh có câu " Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cam hủy thương " là do câu nói trên mà ra vậy.
Mạnh Tử có nói : "Tăng Tử nuôi Tăng Tích, ắt có rượu, thịt, sắp dọn thì hỏi có cần thêm gì không ? Nếu có hỏi có còn thức ăn nữa không, thì cứ bảo luôn là còn. "
Mạnh Tử đã khen Tăng Tử nuôi cha.
Gia ngữ có viết : Nước Tề thường rước ông, muốn ông làm quan Khanh, nhưng ông không đến mà nói rằng :
- Cha mẹ tôi già, ăn lộc của người thì lo việc người, cho nên tôi không nỡ xa cha mẹ để làm việc cho người khác.
Như thế chúng ta đã thấy chữ Hiếu của Tăng Sâm.
Gia ngữ cũng có viết chuyện ông bỏ vợ vì vợ chưng trái lê không chín, rồi sau đó không cưới vợ nữa v.v...chuyện nầy chắc do kẻ hiếu sự đặt thêm chớ không có sự thật.
Trong các sách Đệ tử truyện, Gia ngữ, Hán chí đều nói : " Khổng Tử nói về đạo Hiếu cho Tăng Tử nghe, rồi Tăng Tử mới viết Hiếu kinh. "
Nhưng trong Hiếu kinh bắt đầu có câu : " Trọng Ni ở đó, Tăng Tử hầu... ". Như thế thì dù cho quyển sách nầy của Khổng Tử nói ra, Tăng Tử chép thì cũng không bao giờ có việc ghi lên trên mấy chữ Khổng Tử và Tăng Tử như vậy.
Người ta nghĩ rằng ai đó đã viết quyển Hiếu kinh và vì Tăng Tử có hiếu nổi tiếng, cho nên mới mượn danh mà ghi vào quyển sách.
Mạnh Tử có viết : " Tăng Tử ở Võ thành dạy học ", thật ra thì Tăng Tử không bao giờ có dạy học cả.
Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tăng Tử là người nhỏ tuổi hơn cả và cũng thọ hơn nhiều người, cho nên trong các thiên của sách Lễ ký, thường có nhắc đến Tăng Tử luôn.
Trong thiên Lý nhơn sách Luận Ngữ có chép :
" Khổng Tử bảo Tăng Tử :
- Đạo của ta " Nhứt dĩ quán chi ".
Tăng Tử liền nói với môn nhơn :
- Cái đạo của Phu Tử, Trung Thứ mà thôi vậy "
Vì thế Chu Tử mới viết " Chỉ có mình Tăng Tử mới độc cái chơn truyền đạo thống. "
Ông cũng cho rằng thiên Đại Học trong sách Lễ Ký là do Tăng Tử viết, và định đó là một trong pho Tứ Thơ.
Trong sách Hán chí, phần Nho gia, có ghi tên sách của Tăng Tử viết gồm 18 thiên, nhưng đã bị thất lạc.
Sách " Nguyên hoà tánh soán " có viết : " Dưới thời Xuân Thu, Lữ diệt Tăng, Tăng thái tử là Vu làm quan ở nước Lỗ, bỏ ấp của mình mà trở thành Tăng thị (lớp bình dân).
Theo sách Thế bổn : Vu sanh Phụ, Phụ sanh Tích là phụ thân của Tăng Tử
 
3. Bốc Thương.
Tự Tử Hạ, sách Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 44 tuổi ".
Sách Tập giảo dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Bốc Thương ở Ôn Quốc ". Gia ngữ thì lại nói là người nước Vệ, sách Lễ Ký lại ghi là người nước Nguỵ.
Thành cũ nước Ôn, ngày nay nằm ở Tây Nam Ôn huyện, tỉnh Hà Nam. Ôn là một nội ấp của nhà Châu, sau thuộc nước Vệ.
Lễ ký chép là người nước Nguỵ có lẽ vì Tử Hạ đã ở một thời gian rất lâu ở vùng Ngụy phía Tây Hà.
Sách Đệ tử truyện viết : Khổng Tử đã mất, Tử Hạ ở Tây Hà dạy học, làm thầy Ngụy Văn hầu...
Sách Tùy đồ kinh chí chép đất An âm có Tây Hà đó là chỗ ở của Tử Hạ, chỗ ấy hiện nay ở phía Đông cách huyện Thang âm 30 dặm, phía Nam sông Khương thủy ; sách " Sách Ẩn " thì lại nói đất ấy hiện nay là Đồng Châu của tỉnh Thiểm Tây, còn sách Chánh nghĩa thì lại nói đó là quận Tây Hà thuộc huyện Phàn Dương tỉnh Sơn Tây, các thuyết trên đây đều không đúng.
Trong sách Sử ký, phần Nho lâm truyện có viết : " Điền Tử Phương, Đoàn can Mộc, Ngô Khởi, Cầm hoạt Ly v.v... đều thọ nghiệp với Tử Hạ ", như thế thì việc dạy học ở Tây Hà thịnh hành là dường nào cũng đủ thấy.
Trong thiên Tử Lộ, sách Luận Ngữ đã viết : " Tử Hạ làm quan Tể ở Lữ phủ ", Lữ phủ là một ấp của nước Lỗ, như thế thì Tử Hạ thường làm quan ở nước Lỗ.
Thiên Tiên Tiến trong sách kể trên cũng có viết : " Văn học thì Tử Du, Tử Hạ,... "
Trong thiên Tử Trương cũng có ghi lời Tử Hạ : " Hằng ngày đều biết cái quên của mình, hằng tháng không quên cái hay của mình...đó có thể nói là hiếu học vậy ". Như thế là Tử Hạ giỏi về văn học mà lại còn hay về ôn cố, tri tân nữa. Những nhà Kinh học cũng cho rằng, Lục kinh, đa số đều do Tử Hạ truyền, vì thế Hậu nho mới gọi Tử Hạ là thầy " truyền kinh " sắp ngang hàng với Tăng Tử là thầy " truyền đạo ", và Hán nho thì theo Tử Hạ, còn Tống nho thì theo Tăng Tử.
 
4. Đoan Mộc Tứ.
Tự Tử Cống, người nước Vệ. Sách Đệ tử truyện và Gia ngữ đều nói nhỏ hơn Khổng Tử 31 tuổi.
Trong thiên Tiên Tiến, sách Luận Ngữ có viết : " Ngôn ngữ, có Tể Ngã và Tử Cống ", như thế là Tử Cống giỏi về khoa ngôn ngữ.
Đệ tử truyện cũng có viết : " Tề sắp đánh Tấn, Tử Cống qua du thuyết với Ngô, bảo hãy bỏ Việt để đánh Tề, rồi lại qua Tấn du thuyết đánh Ngô, Tử Cống một lần ra đi du thuyết, giữ còn nước Lỗ, làm loạn Tề, phá Ngô, làm mạnh Tấn, làm Bá nước Việt, là nhờ giỏi về khoa ngôn ngữ...
Thật ra, chuyện ghi trên đây không giống với tài liệu Ngô thế gia và Tề thế gia...cũng có thuyết nói ông làm tướng nước Tề, Vệ, nhưng không có bằng chứng gì đáng tin.
Trong thiên Tiên Tiến cũng có chép : " Nếu Tứ không chịu mạng với đế vương mà đi buôn thì làm giàu ".
Tử Cống có tài sản đến ngàn vàng, trong các sách Đệ tử truyện, Hóa thực truyện và Gia ngữ đều có chép.
Sách Thôi thuật chép rằng, Tử Cống giàu, là chỉ lưu tâm đến việc sản xuất, chớ không phải buôn bán.
Về cuối đời Xuân Thu, thương nghiệp đã lần lần phát đạt, vì các đệ tử của Khổng Tử không chú tâm đến việc lợi, nếu lo làm giàu thì tất nhiên sẽ có nhiều người sẽ giàu lớn, lời nói của họ Thôi, không phải là không căn cứ.
Tử Cống là người có tiền nhiều nhứt trong số môn đệ của Khổng Tử, mà nghèo nhứt là Nguyên Hiến và Nhan Uyên, cho nên sách Gia ngữ và Hàn thi ngoại truyện đều có chép chuyện Tử Cống đến thăm Nguyên Hiến.
Tử Cống sùng bái ngôn luận của Khổng Tử, điều nầy thấy có chép rất nhiều trong sách Mạnh Tử, cho nên Thôi Thuật mới nói : " Khổng Tử mà được sáng danh trên đời là nhờ công của Tử Cống rất nhiều ".
 
5. Phàn Tu.
Tự là Tử Trì, trong sách Gia ngữ và Đệ tử truyện đều chép nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi. Trịnh Huyền cho ông là người nước Tề, nhưng Gia ngữ lại nói là người nước Lỗ.
Sách Gia ngữ cũng chép : Ông thường làm quan với Quí thị, nhưng không biết căn cứ vào đâu mà sách Gia ngữ lại viết như thế.
Thiên Tử Lộ trong sách Luận Ngữ có viết : Phàn Trì xin học làm ruộng làm vườn, Khổng Tử chê là " tiểu nhơn "
Chữ tiểu nhơn nầy là đối với chữ quân tử tại vị...cũng như Mạnh Tử đã nói chữ " dã nhơn " vậy (người quê mùa).
Sách Bạch Thủy Bi có viết : " Phàn Tu tự là Tử Đạt, Phàn Hưởn tự Tử Trì, như thế dường như Phàn Tu và Phàn Hưởn là hai người...Người đời xưa dùng chữ Tu có nghĩa là " râu " mà cũng có nghĩa là chờ đợi, như thế thì Phàn Tu, tự là Trì cũng có lý...
Phần trên có nói : Một người chống gậy mỉa mai Khổng Tử : " Tay chưn không động, 5 giống lúa không phân biệt được " là ý muốn chê Khổng Tử không lao động.
Trước thời Khổng Tử, chưa có tư nhơn dạy học, thâu học phí của đệ tử [ngày xưa chữ thúc tu (bó nem) là như học phí bây giờ]. Lúc đó cũng chưa có giới bình dân đi đó đi đây du thuyết, và hoạt động chánh trị...vì hế những kẻ ẩn sĩ rất chướng tai gai mắt với phong trào mới mẻ ấy.
Ýù của Phàn Trì, có phải muốn chống đối thái độ thiếu lao động của Nho gia thời ấy chăng ? Hay là ông phẫn chí vì cái đạo không hành được trong lúc ấy chăng ? Hay là Phàn Trì đã nhận được sự cần thiết của lao động, cày cấy ; làm vườn là điều thực tế trong hoàn cảnh xã hội lúc đó ?
 
6. Ngôn Yển.
Tự Tử Du, Đệ tử truyện chép : " Người nước Ngô, nhỏ hơn Khổng Tử 45 tuổi ". Sách Gia ngữ chép : " Người nước Lỗ, nhỏ hơn Khổng Tử 35 tuổi... "
Theo sách Luận Ngữ, Lễ Ký, có chép thì Tử Du, Tử Hạ và Tăng Tử đều có nhiều lời nói trong các sách ấy, tuổi những người ấy xấp xỉ nhau. Có lẽ theo sách Đệ tử truyện là đúng.
Số đệ tử của Khổng Tử, người nước Lỗ là nhiều hơn hết. Kế đó là người nước Vệ, rồi sau là người nước Tống.
Sách Mạnh Tử có chép : " Nước Trần, Lương, Sở sanh ra, đẹp cái đạo của Châu Công, Trọng Ni, phía Bác học với Trung quốc ". (Trong thiên Đằng Văn Công).
Sau khi Khổng Tử mất, vì Ngô cách xa với Lỗ, và Khổng Tử cũng chưa hề đến Ngô, mà Tử Du, chỉ là người độc nhứt mà nước Ngô, không nài đường xa vạn dặm đến học, xét ra, sách Gia ngữ chép có phần đúng.
Tử Du thường làm quan ở Lỗ, làm quan Tể ở Võ Thành. Thiên Dương Hóa trong sách Luận Ngữ có viết : " Tiếc người có đại tài mà đem dùng vào việc nhỏ ".
Thiên Lễ vận sách Lễ Ký có chép Tử Du dạy " Đại đồng và Tiểu khương ", Tử Du và Tử Hạ đều nổi tiếng về văn học và cũng giỏi về Lễ, và thiên Lễ vận là cũng do học trò của Tử Du ghi chép.
 
7. Nhan Hồi.
Tự Tử Uyên, Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Người nước Lỗ, một đai cơm, một bầu nước, nhưng không thay đổi sự vui thích (Thiên Ung dã, sách Luận Ngữ), học một biết mười (thiên Công dã, sách Luận Ngữ), học một biết mười (thiên Công dã Tràng), ham học, không giận dỗi vô lý, không bị lầm lỗi hai lần (thiên Ung dã) cho nên Khổng Tử khen : Ta thấy nó tiến mà không hề thấy nó dừng lại (thiên Tử Hản), các bạn đồng môn nhiều người tôn sùng, như Tử Cống đã nói : " Tứ nầy đâu dám mong như Hồi " (thiên Tiên Tiến) nhưng ông không may chết sớm, cho nên Khổng Tử khóc rất cảm động : " Trời hại ta, trời hại ta ". Tình cảm đau xót tràn ngập ngoài thái độ và ngôn ngữ, vì Nhan Uyên là một đệ tử rất đắc ý của Khổng Tử, cho nên trong thiên Tiên Tiến đã sắp ông là người có nhiều đức hạnh hơn hết.
Về tuổi của Nhan Uyên, trong Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi.
Đệ tử truyện lại có viết : " Nhan Hồi 29 tuổi, tóc đều bạc, chết sớm ". Gia ngữ cũng viết : " Nhan Tử 29 tuổi mà tóc bạc, mới 32 tuổi mà chết sớm ".
Thiên Lực mạng trong sách Liệt tử lại viết " tài Nhan Hồi không dưới đám đông, nhưng chỉ thọ có 4, 8 (32).
Truyện Tôn Đăng, sách Tam quốc Ngô chí có viết : " Tôn Quyền lập Đăng làm thái tử, tuổi 33, Đăng đã thượng sớ viết : Nhan Hồi ở Châu Lỗ có tài thượng trí mà còn yểu chiết...hà huống gì thần đã qua tuổi thọ của ông, v.v... " như thế thì Nhan Tử chỉ có 32 tuổi dường như là đúng.
Nhan Hồi nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi, chết vào năm 32, lúc đó Khổng Tử 62 tuổi nhằm năm thứ 5 đời Ai Công.
Bá Ngư chết vào năm 12 đời Ai Công, lúc đó Khổng Tử 69 tuổi, như thế chết sau Nhan Hồi 8 năm, nhưng trong thiên Tiên Tiến sách Luận Ngữ lại chép, Nhan Uyên chết, Nhan Lộ xin chiếc xe của Khổng Tử làm cái quách, Khổng Tử đáp :
- Khi Lý (Bá Ngư) chết, cũng chỉ có quan mà không quách...
Như thế thì Bá Ngư chết trước Nhan Uyên.
Trong sách Ngũ Kinh dị nghĩa của Hứa Thận, cho đó nếu là lời giả thiết cũng không hợp tình lý, thế nên trong sách Sử Ký thám nguyên nói rằng tuổi của Nhan Uyên phải là nhỏ hơn Khổng Tử 40 mới hợp lý, vì nếu ông chết vào năm 32 tuổi, thì Khổng Tử 72, lúc đó thì Bá Ngư đã chết được 3 năm rồi...
 
8. Trọng Do.
Tự Tử Lộ, cũng gọi là Quí Lộ. Đệ tử truyện và Gia ngữ đều chép : " Nhỏ hơn Khổng Tử 9 tuổi, người đất Biện, Biện là một ấp của Lỗ, thành cũ hiện nay ở phía Đông huyện Tư Thủy, tỉnh Sơn Đông, như thế thì Tử Lộ cũng là người nước Lỗ.
Tử Lộ hiếu dõng, thích tiến thủ, học được điều gì chưa làm được, thì không chịu học thêm (Thiên Công dã Trường trong Luận Ngữ), nhưng ông không biết lo ngại, dè dặt, tính toán khi lâm sự để thành công nên Khổng Tử mới nói : Tay không cự cọp dữ, lội bừa qua sông nguy hiểm, chết mà không hối hận...ta không như thế (thiên Thuật nhi).
Khổng Tử cũng thường than thở : " Như ngươi Do, thì bất đắc kỳ tử vậy " (thiên Tiên Tiến).
Sau Tử Lộ làm quan ở nước Vệ và chết trong nạn Bằng Khoái đánh đuổi Triếp.
Khổng Tử đang ăn, nghe tin Tử Lộ bị chết thảm, liền khóc lớn : " Trời dứt ta, trời dứt ta ". (Xem Đệ tử truyện và thiên Đàn cung trong sách Lễ Ký).
Khổng Tử thường khen Tử Lộ : " Một lời nói có thể đoán định được việc hình ngục " (thiên Nhan Uyên) và " Nước có ngàn cổ xe có thể dùng ông vào việc tài chánh (thuế má) " (thiên Công dã Trường) thế nên trong sách Luận Ngữ có viết : " Việc chánh thì Nhiễm Hữu và Quí Lộ ".
Dưới thời Quí Hoàn Tử, ông thường làm quan Tể cho Quí thị. Lúc Khổng Tử làm quan ở nước Lỗ, mà được Quí tôn trọng dụng là cũng nhờ Tử Lộ.
 
9. Chuyên Tôn Sư.
Tự Tử Trương, Đệ tử truyện và Gia ngữ có viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 48 tuổi, người nước Trần ".
Sách " Sách Ẩn " dẫn lời Trịnh Huyền : "  Người đất Dương Thành. Dương Thành thuộc về nước Trần... "
Thiên Tôn Sư trong " Lã thị Xuân Thu " viết : " Tử Trương thuộc về một gia đình tầm thường ở nước Lỗ " như thế là cho Tử Trương là người nước Lỗ.
Họ Chuyên Tôn đuổi Trần công tử, chuyện nầy thấy có chép trong sách Thông chí thị tộc lược...nhưng theo sách Tả truyện thì vào năm 25 đời Chiêu Công, Chuyên Tôn ra đi...Năm Chiêu Công thứ 25 thì Khổng Tử mới 35 tuổi thì Tử Trương chưa sanh, làm sao Tử Trương là con Chuyên Tôn được.
Họ Chuyên Tôn đẩy Trần công tử qua Lỗ, thế nên mới có thuyết Tử Trương là người nước Trần, nước Lỗ.
Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ có viết : " Tử Cống hỏi Sư với Thương (Bốc Thương) ai hiền ? " Khổng Tử đáp : " Sư thì thái quá, còn Thương thì bất cập ".
Tử Cống lại hỏi thêm : " Như thế thì Sư hơn chăng ? " Khổng Tử đáp : " Thái quá thì cũng như bất cập...vì Tử Hạ tánh tình đôn hậu thành thật, nhưng khí độ lại hẹp hòi, còn Tử Trương thì khí độ rộng rãi, tánh tình xốp nổi, hay khoa trương và hơi bạc... "
Thiên Tử Trương trong sách Luận Ngữ có viết : Môn nhơn của Tử Hạ hỏi về chuyện giao thiệp với Tử Trương.
Tử Trương hỏi : " Về chuyện đó thầy Tử Hạ nói như thế nào ? ".
Môn nhơn đáp :
- Thầy Tử Hạ nói : Nếu người khá thì cùng giao thiệp. Nếu không khá thì cự tuyệt...
Tử Trương nói :
- Chỗ tôi biết thì khác : Người quân tử tôn hiền mà bao dung đám đông, khen người lành mà xót thương người dở...Ta có phải là kẻ đại hiền chăng ? Làm sao không dung người được ? Ta là kẻ chẳng hiền chăng ? Người ta sẽ cự tuyệt ta, ta làm sao cự tuyệt người được ?
Xem chương nầy, chúng ta thấy khí độ hai người không giống nhau.
Thiên Đàn cung trong sách Lễ Ký có viết : " Tử Hạ đã hết tang mà đến ra mắt...Ta đàn, họa đó mà không hòa, đàn mà không thành tiếng...
Bảo rằng : Buồn chưa quên được...vì Tiên vương chế lễ mà không dám vượt qua...
Tử Trương đã hết tang, mà đến ra mắt, ta đàn, họa đó mà hòa, đàn mà thành tiếng.
Bảo rằng : Tiên Vương chế lễ, chẳng dám chẳng đến... ".
Đọc chương nầy, ta thấy tánh tình hai người chẳng giống nhau.
Tăng Tử nói :
- Đường đường Tử Trương cũng khó mà sánh được cái nhơn của người ấy.
Theo Đệ tử truyện, Tử Hạ nhỏ hơn Khổng Tử 44 tuổi, Tử Du nhỏ hơn Khổng Tử 45 tuổi, Tăng Tử nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi, Tử Trương nhỏ hơn 48 tuổi, 4 ông nầy là lớp thiếu niên đồng môn tuổi xấp xỉ nhau, mà Tử Trương nhỏ hơn hết.
Mạnh Tử có nói : Khổng Tử đã mất, Tử Hạ, Tử Du, Tử Trương vì thấy Hữu Nhược giống thánh nhơn nên muốn dùng lễ thờ Khổng Tử, thờ Hữu Nhược mà bắt Tăng Tử phải theo.
Tăng Tử không đồng ý (thiên Đằng văn Công) như thế, lúc Khổng Tử mất, 4 thầy kể trên là lãnh tụ của các đồng môn vậy.
Trong thiên " Phi thập nhị tử ", Tuân Tử đã phê bình Tử Trương, Tử Hạ và Tử Du là 3 phái " tiện Nho " mà không đề cập đến Tăng Tử là vì cho phái của Tăng Tử là chánh thống.
Sách Luận Ngữ ghi những lời đệ tử phát biểu ý kiến mình, về Tăng Tử thấy có 13 lần, Tử Hạ 12 lần, Tử Trương 2 lần, Tử Du 4 lần, 4 ông ấy là tuổi trẻ nhứt trong số đồng môn, và đó là số đệ tử nổi nhứt trong số đệ tử lớp sau.
Số đệ tử lớp trước, như Nhan Tử, chỉ thấy lời nói có một lần ; và đó là lời tán tụng Khổng Tử, lời nói của Tử Cống có 7 lần ; trong số có 5 lần tán tụng Khổng Tử còn phát biểu ý kiến mình chỉ có 2 lần...Như thế thì số đệ tử từ lớp sau phát biểu ý kiến riêng của mình nhiều hơn lớp trước.
 
10. Nhiễm Cầu
Tự Tử Hữu, người nước Lỗ, Gia ngữ vết : " Ông thuộc tông tộc Trọng Cung ". Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 29 tuổi ".
Khổng Tử khen ông có thể làm quan Tể cho một ấp ngàn nhà, hay là một nhà có đến 100 cổ xe (Thiên Công dã Tràng trong Luận Ngữ), như vậy là giỏi về việc chánh cũng như Tử Lộ.
Nhiễm Hữu có nói về chí, cho rằng : " Nếu cần làm việc đó, thì 3 năm có thể làm cho dân ấm no " ; như thế là giỏi về lý tài.
Ông đã làm chức việc coi thu góp cho Quí thị. Khổng Tử có nói : " Cầu không phải là học trò của ta...tiểu tử hãy nổi trống công kích nó ! "
Nếu chuyên môn về lý tài thì sẽ đi đến chỗ tệ hại là cứ lo thu góp. Cá tánh của ông tương phản với Tử Lộ...cho nên Khổng Tử đã nói : " Cầu thoái bộ cho nên phải đẩy tới, còn Do thì lấn lướt người, nên phải kéo lui...(thiên Tiên Tiến).
Nhiễm Hữu thường nói : " Không phải tôi không thích cái đạo của thầy, tôi chỉ không đủ sức ".
Khổng Tử nói : " Sức không đủ, giữa đường mà bỏ, là tại ngươi tự vạch cho mình.
Tự cho mình là sức không đủ, tự vạch lằn mức cho mình mà không cầu tiến, đó gọi là thối vậy ".
Trong sách Khổng Tử thế gia có ghi chuyện Quí Khương Tử trước triệu Nhiễm Hữu trở về nước Lỗ, nhờ lời Nhiễm Hữu mà mới rước Khổng Tử về để an dưỡng tuổi già.
Khổng Tử được trở về Lỗ là nhờ công Nhiễm Hữu vậy.
 
11. Tể Dư
Tự Tử Ngã, sách Gia ngữ và Trịnh Huyền đều viết là người nước Lỗ, cùng với Tử Cống nổi tiếng về ngôn ngữ (thiên Tiên Tiến trong Luận Ngữ).
Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Tể Ngã làm quan ở nước Tề, làm đại phu đất Lâm Tri, rồi làm loạn với Điền Thường mà bị tội tru di... Khổng Tử xấu hổ về việc đó... ".
Trong sách Tề thái công thế gia, có Hám Chỉ cũng tự là Ngã (Tề thế gia viết là Giám Chỉ, cũng tức là người nầy), bị Điền Thườngh giêÙt, Lý Tư truyện, cũng có viết : " Điền Thường âm mưu chiếm nước Tề, giết Tể Dư trước sân chầu...và giết Giản Công ở nhà thái miếu ".
Người ta đã lầm Hám Chỉ với Tể Ngã, trong Đệ tử truyện cũng như thế, nhưng trong Đệ tử truyện lại lầm thêm là người bị Điền Thường giết lại viết ra là người ấy cùng âm mưu với Điền Thường làm loạn, đã lầm lẫn rồi còn lầm lẫn thêm làm cho đệ tử của Khổng Tử bị hàm oan.
Các sách Cổ sử, Duy trai tục bút, Sử Ký thảo chứng đều có biện bạch chuyện nầy rất rõ ràng.
Tể Ngã ngủ ngày, Khổng Tử trách " Củi mục không thể chạm trỗ được, vách đất không thể tô phết được (thiên Công dã Tràng) ".
Tể Ngã muốn tang 3 năm ngắn lại, Khổng Tử chê là " bất nhơn " (thiên Dương Hóa). Khổng Tử lại nói : Trước kia ta đối với người, nghe lời nói mà xem xét việc làm, bây giờ ta đối với người, nghe lời nói mà tin việc làm...đối với Tể Dư ta đã thay đổi như thế.
Tể Ngã bị mắng, trách, thật ra cũng quá nhiều.
Điền Thường tức là Trần Hằng trong thiên Hiếu Vấn sách Luận Ngữ.
Trần Hằng giết vua, Khổng Tử tắm rửa mà đi chầu, xin thảo phạt, như thế thì lúc Điền Thường giết Giản Công, Khổng Tử còn sống.
Nhiễm Hữu làm nhiệm vụ thu góp cho Quí thị, Khổng Tử còn không thích việc làm đó, giả sử như Tể Ngã mà hiệp lực với Điền Thường làm loạn thì Khổng Tử đâu có thể làm thinh mà không phê phán được ?
Tử Lộ tử nạn ở nước Vệ, Khổng Tử nghe tin buồn rầu khóc lóc, giả sử như Tể Ngã bị chết trong loạn Điền Thường thì thế nào Khổng Tử cũng khóc...nhưng trong sách lại không thấy ghi hai việc nêu trên, như thế chắc chắn là đã có sự lầm lẫn về tên người.
 
12. Công Dã Trường
Sách Đệ tử truyện viết : Người nước Tề, tự Tử Trường. Sách " Sách Ẩn " viết : Người nước Lỗ, tên Trường. Phạm Ninh viết : Tự Tử Chi.
Sách Luận Ngữ thích văn lại dẫn lời sách Gia ngữ viết : tự Tử Trương. Sách Luận Ngữ tập giải dẫn lời Khổng an Quốc viết : " Công dã Trường người nước Lỗ, họ Công dã, tên Trường, các thuyết khác nhau là do chữ gần nhau và âm cũng tương tợ ".
Khổng Tử đã gã con cho Công dã Trường, như vậy là rễ của Khổng Tử.
 
13. Mật Bất Tề.
Tự Tử Tiện, sách Gia ngữ và Luận Ngữ tập giải đều viết : người nước Lỗ, sách Đệ tử truyện viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 49 tuổi. Sách " Sách Ẩn " dẫn lời sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi.
Sách Gia ngữ bản mới lại chép : Nhỏ hơn Khổng Tử 40 tuổi, thường làm quan Tể ở Đơn phụ, gảy đàn, chẳng ra khỏi nhà mà trị.
Sách Đệ tử truyện và Lã thị Xuân Thu đều có viết những dật sự lúc ông làm quan.
Khổng Tử khen ông : " Quân tử thay con người đó...như vậy ông cũng là một cao đệ trong Khổng môn ".
Sách Hán chí có chép : Nho gia, Mật Tử có viết quyển  sách gồm 16 thiên nhưng bị thất lạc.
Sách " Chánh Nghĩa " dẫn lời Nhan thị gia huấn viết : " Vĩnh Thành huyện ở Đái Châu tức là huyện Đơn phủ cũ, phía Đông có Tử Tiện bi, có khắc " Tế Nam phục sanh " tức là người dòng dõi của Tử Tiện.
 
14. Nhiễm Ung
Tự Trọng Cung. Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : Người nước Lỗ.
Sách " Sách Ẩn ", dẫn lời Gia ngữ viết : " là tông tộc của Bá Ngưu, nhỏ hơn Khổng Tử 29 tuổi ".
Thiên Ung dã trong Luận ngữ viết : Phu Tử gọi Trọng Cung bảo : " Con của trâu lang mà đã có sừng và sắc đỏ (có thể dùng cúng tế) tuy muốn chẳng dùng, nhưng núi sông (thần thánh) đâu có thể bỏ được. "
Gia ngữ cũng có viết : " Sanh trong gia đình một người cha bất hiếu ".
Sách Đệ tử truyện viết : " Cha của Trọng Cung là người đê tiện ". Những điều đó đều do ức đoán của sách Luận Ngữ mà ra.
Trong thiên Tiên Tiến thì liệt Trọng Cung vào hạng đức hạnh, trong thiên Ung Dã, Khổng Tử khen  " Có thể khiến ngồi day mặt về phương Nam " là rất hợp với ý trên.
Trọng Cung thường làm quan Tể cho Quí thị (xem thiên Tử Lộ) mà thành tích chánh trị không thấy ghi trong sách vở, không hiểu tại sao...
 
15. Tất Điêu Khai.
Tự Tử Khai, sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : Người nước Lỗ, sách Chánh nghĩa dẫn lời Gia ngữ viết : Người nước Thái tự Tử Nhược nhỏ hơn Khổng Tử 11 tuổi.
Trong sách Hán chí phần Nho gia có Tất điêu Tử, là đệ tử Khổng Tử, hậu duệ cuả Tất điêu Khai. Sách " Tiên kinh đại huấn " viết tên là Bằng. Sách Bạch thủy bi ghi tự là Tử Tu.
Thiên Công dã Tràng sách Luận Ngữ có viết : " Phu Tử bảo Tất điêu Khai làm quan. Thưa : " Dạ đối với việc ấy tôi chưa được tự tin ". Phu Tử rất thích ".
Trong sách Luận Ngữ, thấy tên Tất điêu Khai chỉ có trong chương ấy mà thôi.
 
16. Công Tây Xích
Đệ tử truyện viết : " Tự Tử Hoa, nhỏ hơn Khổng Tử 42 tuổi ". Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Người nước Lỗ. Khổng Tử khen : Thắt đai đứng chốn thiên đình, có thể nói chuyện với tân khách (Thiên Công dã Tràng, sách Luận Ngữ) ".
Tử Hoa cũng nhận mình : " Nguyện làm tiểu tướng ở chốn Tôn miếu Hội đồng " (thiên Tiên Tiến) như vậy Tử Hoa có tài về ngoại giao.
Mã Dung trong sách Luận Ngữ tập giải viết : Tử Hoa có dung nghi có thể làm hành nhơn (đi sứ)
Thiên Ung dã cũng có ghi chuyện Tử Hoa đi sứ ở nước Tề, Nhiễm Tử xin gạo cho mẹ, và Khổng Tử có nói : Chu cấp không nên tiếp giúp cho kẻ có tiền...
Đây là chuyện chép lúc Khổng Tử còn làm quan Tư Khấu, dự việc chánh ở nước Lỗ. Nếu xét cho kỹ, lúc đó Khổng Tử đúng 52 tuổi, thì Tử Hoa mới có 10 tuổi thôi, như thế là Đệ tử truyện sai lầm.
 
17. Nguyên Hiến
Tự Tử Tư, sách tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Người nước Lỗ ".
Sách Gia ngữ viết : " Người nước Tống, nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi ". Thiên Ung dã trong sách Luận Ngữ viết : " Nguyên Tư làm quan Tể, cho lúa 900 mà từ chối ".
Sách Gia ngữ cũng viết : " Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, Nguyên Hiến thường làm quan Tể cho Khổng Tử ".
Không nghe nói Khổng Tử có Thái ấp (đất cấp) như thế thì tể đây là giao tể, không phải là ấp tể. Có thuyết nghi rằng, Nguyên Hiến nhỏ hơn Khổng Tử 26 tuổi, Gia ngữ lầm chữ " tam " với chữ " nhị ".
Nếu như Gia ngữ nói đúng thì lúc Khổng Tử làm Tư Khấu, thì Nguyên Hiến chỉ có 16 tuổi, Nguyên Hiến rất nghèo, sách Gia ngữ và Hàn thi ngoại truyện đều chép như thế.
 
18. Mẫn Tổn.
Tự Tử Khiên, người nước Lỗ, Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 15 tuổi ". Gia ngữ viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 50 tuổi ".
Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tăng Tử và Tử Trương nhỏ hơn hết, chữ 50 đây rõ ràng là 15 (chữ Nho đọc đảo ngược 50 thành 15).
Thiên Ung dã trong sách Luận Ngữ, làm quan Tể đất Phí, ông hết sức từ chối, như thế thấy ông thanh khiết thế nào.
Trong thiên Tiên Tiến, Khổng Tử lại khen Mẫn Tử có hiếu, ông cũng được khen có nhiều đức hạnh sau Nhan Tử.
Trong sách Hàn thi ngoại truyện, Nghệ văn loại tụ, có chép chuyện Lư Y cố sự là do người đời sau bày vẽ thêm.

Mẫn Tử Khiên
Theo bản khắc trên đá mộ chí dưới thời Bắc Ngụy (220 T.L)
(rút trung Trung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc, quyển 1 trang 127)


 
 
 
 
 
 
 
19. Tư Mã Canh
Tự Tử Ngưu, người nước Tống, sách Luận Ngữ tập giải của Khổng an Quốc viết : Ngưu là đệ tử của Tư mã Lê, dường như cũng có tên là Lê.
Ngưu là em của Tư mã Hoàn Đồi nước Tống, Hoàn Đồi chuyên quyền ngang ngược, vua Tống thảo phạt, Hoàn Đồi thua chạy qua nước Tào rồi nước Vệ. Ngưu bỏ ấp chạy qua Tề, Hoàn Đồi cũng chạy qua Tề, Ngưu lại bỏ Tề, chạy qua Ngô, người nước Ngô không ưa, liền trở về Bắc, đi ngang qua Lỗ, chết ngoài cửa thành, cho nên Khổng Tử đã khuyên : " Người quân tử không lo, không sợ ", mà Ngưu thì có lời than : " Người ta đều có anh em, chỉ có mình tôi là không có gì cả " (thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ).
(Trong chữ Nho, Ngưu và Lê hình và nghĩa tương tợ nhau, nên Ngưu lầm ra Lê, chớ chẳng phải có hai tên).
 
20. Nhiễm Canh.
Tự Bá Ngưu, người nước Lỗ, sách Khuyết lý quảng chí và Thánh môn chí đều viết : nhở hơn Khổng Tử 7 tuổi.
Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ liệt ông vào hàng đức hạnh, thiên Ung dã viết : Bá Ngưu có bịnh, Phu Tử hỏi thăm ngoài cửa và nắm tay yên ủi : " Mất ...là mạng vậy, người như vầy mà lại có bịnh như thế ".
Phu Tử thương tiếc sâu xa, tình cảm hiện rõ ra lời nói. Tên Bá Ngưu thấy trong sách Luận Ngữ chỉ có hai chương mà thôi.
Sách Luận Ngữ chỉ viết có bịnh. Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : Bá Ngưu có " ác tật ".
Sách của Hoài nam Tử, Tinh thần huấn có viết : " Bá Ngưu có bịnh phong cùi, đó là bịnh khó trị và cũng dễ truyền nhiễm, thế nên mới gọi là ác tật.
Khổng Tử thân đến thăm, Bá Ngưu sợ truyền nhiễm nên không để cho Phu Tử vào, mà chỉ để đứng ngoài cửa hỏi thăm, Bá Ngưu ra ngoài nằm phía trong cửa, Khổng Tử thấy bịnh tình nguy ngập, cảm thương nên cầm tay Bá Ngưu xem thử mạch, thấy mạch đã mất nên than thở ".
Đọc đoạn nầy, thấy tình cảm của Khổng Tử đối với môn đệ thật đậm đà.
 
21. Vu Mã Thi
Gia ngữ viết : tự là Tử Kỳ, người nước Trần, nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Luận Ngữ lại chép là : Vũ Mã Kỳ (thiên Thuật nhi). Đệ tử truyện chép : tự Tử Kỳ.
Sách Hán thơ, thiên Lễ kim nhơn biểu, và thiên Câu bị lãm của Lã thị Xuân Thu cũng chép là Tư Mã Kỳ.
 
22. Nhan Vô Do.
Tự Tử Lộ, nhỏ hơn Khổng Tử 6 tuổi, theo sách Đệ tử truyện và Gia ngữ, thì trong số đệ tử, chỉ có Nhan Lộ là lớn hơn hết.
Sách Gia ngữ viết : Nhan Do, tự Quí Lộ, cha Nhan Uyên. Lúc Khổng Tử mới bắt đầu mở trường dạy ở xóm ấp, thường đến học.
Thiên Tiên Tiến có chép : Nhan Uyên chết, Nhan Lộ xin xe của Khổng Tử để làm cái quách.
Luận Ngữ nhắc đến Nhan Lộ chỉ có chương ấy mà thôi, xem qua chương ấy, cũng chưa chắc được là ông đã có học với Khổng Tử hay không.
 
23. Cao Sài.
Tự Tử Cao, Đàn Cung cũng viết là Tử Cao (chữ Cao trong tên ông Cao Dao). Đệ tử truyện viết : Người nước Tề, nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi.
Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết Người nước Vệ. Sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng 40 tuổi.
Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ viết : " Bảo Tử Lộ cho Tử Cao làm quan Tể đất Phí, Gia ngữ viết Tử Cao thường làm quan Tể đất Võ thành. Cũng có sách chép ông làm quan Sĩ sư nước Vệ, thường làm tội chặt chân người, và trong cuộc loạn Bằng Khoái, những người bị tội chặt chân thoát đượcv.v...
 
24. Tăng Điểm
Tự Tích, sách Đệ tử truyện lại chép là Tăng Điềm. Sách Thuyết văn viết : Điềm tuy có nghĩa là đen, nhưng lại sáng suốt.
Trong thiên Tiên Tiến, chương Thị tọa, sách Luận Ngữ có viết chuyện Tử Lộ, Nhiễm Hữu, Công Tây Hoa, mỗi người đều nói xong " chí " của mình, Phu Tử liền quay lại hỏi Tăng Tích :
- Còn Điểm, ngươi như thế nào ?
- Tôi thì khác với ba người ấy...
Phu Tử nói :
- Cũng là mỗi người nên nói lên cái chí của mình vậy.
Tăng Điểm tiếp :
- Xuân phục đã thành, kẻ đội mũ năm, sáu người, tắm ở sông Kỳ, hứng gió ở nền Võ Vu, ca hát mà về.
Trong thiên Đàn Cung cũng có chép chuyện đám tang Quí Võ Tử, Tăng Tích đứng dựa cửa mà hát v.v...cho nên Mạnh Tử đã đáp với Vạn Chương, cho rằng ông với Cầm Trương, Mục Bì là một số người mà Khổng Tử cho là cuồng sĩ (Thiên Tận Tâm).
*
Trong sách Luận Ngữ, có ghi tên số đệ tử của Khổng Tử, chỉ có 24 người kể trên mà thôi. Nhưng số người nổi danh, cũng có thêm một số người nữa, mà còn được tài liệu để tham khảo là 9 người, xin ghi thêm như sau :
 
1. Nam Dung.
Thiên Công Dã Trường trong sách Luận Ngữ có viết : "  Phu Tử bảo Nam Dung : Nước có đạo thì không bị bỏ, nước không đạo thì khỏi bị hình lục, Phu Tử liền đem đứa cháu gái (con của anh) gả cho ông ấy ".
Sách Luận Ngữ tập giải viết : " Nam Dung là đệ tử của Nam Cung Đạo, người nước Lỗ ".
Sách Gia ngữ viết : " Nam Cung Đạo tự Tử Dung, đời trong sạch không bị bỏ, đời ô trọc không bị nhiễm. Khổng Tử đem đứa cháu gái gả cho.
Đệ tử truyện viết : " Nam Cung Quát tự Tử Dung, thiên Hiến Vấn sách Luận Ngữ viết Nam Cung Quát, Nghệ, rất thiện xạ ".
Sách tập giải dẫn lời Khổng an Quốc : Quát là Nam Cung Kỉnh Thúc. Sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu, sách Thù Tứ khảo tín lục đều viết là Nam Cung Quát và Nam Cung Kỉnh Thúc là một người.
Sách Lễ Ký của Trịnh Huyền viết : Nam Cung Đạo tức là Nam Cung Duyệt con của Mạnh hi Tử. Sách Thế bản cũng có viết : " Trọng Tôn Quốc sanh Nam Cung Đạo ".
Sách Tả truyện viết : Nam Cung Kỉnh Thúc và Khổng Tử qua nhà Châu, Kỉnh Thúc là con Mạnh hi Tử, tức Nam Cung Kỉnh Thúc là Nam Cung Đạo vậy.
Trong sách Hán thơ, phần Cổ kim nhơn biểu thì lại cho rằng Nam Cung Kỉnh Thúc và Nam Dung là hai người, thế nên về những nhân vật Nam Dung, Nam Cung Quát, Nam Cung Đạo, Nam Cung Kỉnh Thúc, Trọng Tôn Duyệt, những người ấy liên quan như thế nào, chưa có tài liệu nào xác định được cả.
 
2.Thân Tranh.
Thiên Công dã Tràng trong sách Luận Ngữ viết : Phu Tử nói : Ta chưa thấy ai cứng rắn...
Hoặc có kẻ đáp : Có Thân Tranh.
Phu Tử nói : Thân Tranh nhiều lòng dục, đâu có cứng rắn.
Sách Tập giải viết : " Thân Tranh người nước Lỗ. Sách Đệ tử truyện không có tên Thân Tranh, chỉ có Thân Đảng, tự là Châu.
Sách Chánh Nghĩa viết : " Người nước Lỗ. Sách Đệ tử khảo dẫn Lễ điện đồ của Văn ông nói có Thân Đảng ; Hán Vương Chánh bi có viết : " Không có lòng dục của Thân Đường ".
Sách Luận Ngữ thích văn có dẫn lời Gia ngữ : " Thân Tục, tự Châu. Sách Sử ký, sách Ẩn lại viết Thân Trách...các thuyết đều khác nhau không biết đâu là đúng.
 
3.Trần Cang.
Tự Tử Cầm, thấy có tên trong sách Luận Ngữ ở 3 chương, chương 1 là Học nhi, chương 2, Tử Cầm hỏi Tử Cống và thiên Quí thị, chương Trần Cang hỏi Bá Ngư.
Sách Luận Ngữ do Trịnh Huyền chú và thiên Đàn Cung trong kinh Lễ đều nói là đệ tử của Khổng Tử.
Trong sách Đệ tử giải không có tên Trần Cang, mà chỉ có Nguyên Cang Tịch.
Sách Gia ngữ viết : " Trần Cang, người nước Trần, tự Tử Ngươn, cũng tự là Tử Cầm, nhỏ hơn Khổng Tử 40 tuổi rồi cũng có người có tên là Nguyên Cang tự Tử Tịch, như thế thì Trần Cang và Nguyên Cang không phải là một người.
Thiên Đàn Cung viết : " Trần Tử Xa chết ở nước Vệ, vợ ông và quan Đại phu tính toán việc tuẫn táng mà Trần Tử Cang đến...Trịnh Huyền có lời chú : Tử Xa là Đại phu nước Tề, Tử Cang là em Tử Xa, như thế thì Tử Cang lại là người nước Tề.
Sách Hán thơ, thiên Cổ kim  nhơn biểu phân : Trần Cang, Trần Tử Cầm và Trần Tử Cang là 3 người, và không cho là đệ tử của Khổng Tử.
 
4.Lao.
Thiên Tử Hản trong sách Luận Ngữ có viết : " Lao có nói : Phu Tử nói : Ta không làm thử, nên không có nghề ".
Tên Lao thấy trong sách Luận Ngữ chỉ có chương ấy mà thôi.
Trịnh Huyền, trong sách Tập giải viết : " Lao là đệ tử Tử Lao không biết họ là gì.
Thiên Tắc dương trong sách Trang Tử có viết : " Trường Ngô hỏi người về chuyện Tử Lao ".
Sách Thích văn dẫn lời Tư mã Ban viết : " Tức là Cầm Lao, đệ tử của Khổng Tử ".
Trong sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu cũng có Cầm Lao. Vương Kiện Tôn trong Đọc thơ tạp chí gọi tên Cầm Lao là lầm với Cầm Trương, vì Tả truyện và Mạnh Tử đều có tên Cầm Trương và sách Trang Tử cũng có Tử Cầm Trương mà không viết Cầm Lao.
Cầm Lao tự là Trương, thấy có chép trong Gia ngữ, người đời sau căn cứ theo đó mà sửa chữa lại trong sách Hán thơ.
 
5.Thiềm Đài Điệt Minh.
Tự Tử Vũ, người Võ thành, sách Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 39 tuổi. Sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 49 tuổi ".
Thiên Ung dã trong sách Luận ngữ có ghi việc Tử Du làm quan Tể đất Võ thành, Khổng Tử hỏi có tìm được người giỏi không. Tử Du tiến cử Thiềm Đài Diệt Minh.
Đệ tử truyện chép : Hình trạng Tử Vũ thật xấu xa, muốn đến thờ Khổng Tử làm thầy.
Khổng Tử nghĩ rằng dù cho có tài ít, mà chịu khó học tập thì cũng có thể lập danh được.
Sau đó, Khổng Tử nói : " Ta xem lời nói để dùng người, thì bị thất bại với Tể Dư, xem diện mạo dùng người, thì bị thất bại với Tử Vũ ".
Sách Gia ngữ viết : Tử Vũ có dung mạo của người quân tử, mà tài thì không xứng, trái ngược lại những điều đã chép trong Đệ tử truyện.
 
6.Công Bá Liêu
Đệ tử truyện chép Công Bá Liêu, tự Tử Châu, Luận Ngữ tập giải viết : Người nước Lỗ, trong sách Gia ngữ không thấy chép tên người nầy.
Trong sách Luận Ngữ, đề cập đến Công Bá Liêu chỉ có 1 chương trong thiên Hiến Vấn, đề cập đến việc tố Tử Lộ với Quí Tôn.
Thiên Hoặc Vấn trong sách Luận Ngữ của Chu Tử chú giải cho rằng : " Đó là lúc đánh Tam độ, tìm thấy giáp binh " !
Công Bá Liêu tố cáo Tử Lộ, tức là muốn ly gián Khổng Tử như thế rõ ràng là ông nầy không phải là đệ tử của Khổng Tử. Như thế, Luận Ngữ và Đệ tử truyện đều lầm lẫn.
 
7.Lâm Phóng
Thiên Bát dật trong Luận Ngữ, có chép chuyện Lâm Phóng hỏi về cái goấc của Lễ, Khổng Tử khen : Đó là câu hỏi " lớn " và cũng có ghi chuyện Quí thị đến Thái Sơn, Khổng Tử lại có nói " Thái Sơn không bằng Lâm Phóng chăng ? "
Lời chú sách Luận Ngữ không có ghi ông là đệ tử, trong Đệ tử truyện cũng không thấy nói đến, duy chỉ trong Lễ điện đồ của Văn Ông nói Lâm Phóng là đệ tử của Khổng Tử mà thôi.
 
8.Nhụ Bi
Trong thiên Dương hoá sách Luận Ngữ, có ghi Nhụ Bi muốn ra mắt Khổng Tử.
Khổng Tử từ chối, bảo là mình có bịnh, người truyền lờivừa ra ngoài là ông lấy đàn, đàn hát, muốn cho Nhụ Bi nghe.
Thiên Tạp Ký trong Lễ ký viết : " Tang của Truất Do, Ai Công khiến Nhụ Bi đến học tang lễ với Khổng Tử, vì đó mà có thiên Sĩ tang lễ, như thế chứng minh Nhụ Bi là đệ tử Khổng Tử.
 
9.Mạnh Ý Tử.
Thiên Vi chánh trong Luận Ngữ, có chương Vấn hiếu của Mạnh Ý Tử, nhưng lại viết ông là Đại phu nước Lỗ, Đệ tử truyện cũng không thấy ghi tên ông, duy chỉ có sách Khổng Tử thế gia chép : Nghe theo lời di mạng của cha là Hi Tử đến học lễ với Khổng Tử
*
Trở lên, tất cả 33 người, trừ Công Bá Liêu, chắc chắn không phải là đệ tử của Khổng Tử, cũng còn một số đáng nghi ngờ.
Người đời Thanh, khảo cứu về đệ tử Khổng Tử, lạm tăng lên đến con số 109 người, như thế là có ý nghĩ " càng nhiều càng tốt " nhưng lại thiếu những bằng chứng xác đáng, không dám tin hết được.

 Thân thế Bách Gia Chư Tử

3. Mạnh Tử
4. Tuân Tử
5. Lão Tử
1. Khổng Tử. * 2. Đệ Tử Khổng Tử. * 3. Mạnh Tử. * 4. Tuân Tử. * 5. Lão Tử. * 6. Trang Tử và những người trong phái Đạo gia. * 7. Mặc Tử và môn đệ. * 8. Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Lý Tư và Lữ Bất Vi. * 9. Huệ Thi, Công Tôn Long và nhóm Tác Hạ. * 10. Tô Tần, Trương Nghi và Khuất Nguyên. * 11. Phụ Lục : Chư Tử dưới thời Tây Hán - Niên biểu những việc quan trọng dưới thời Chư Tử.
3. Mạnh Tử.
Sau Khổng Tử, Mạnh Tử đáng tôn là bực Nho gia đại sư. Về Mạnh Tử, trong sách Sử ký có chép Mạnh Tử và Tuân Khanh liệt truyện, trong đoạn đầu phần Mạnh Tử có viết :
" Thái sử công nói rằng : Ta đọc Mạnh Tử, đến thiên Lương Huệ Vương, hỏi về chuyện lấy gì làm " lợi " cho nước, mà buông sách than thở và nói rằng : " Hỡi ôi ! Lợi là cái bắt đầu cho loạn vậy ! "
Phu Tử mà ít nói đến chuyện lợi là đề phòng cái nguồn hại đó...cho nên mới nói : Buông lung theo lợi mà làm thì gây ra nhiều oán.
Từ bực thiên tử cho đến thứ dân, cái tệ của ham lợi cũng có khác gì nhau đâu ! "

Hình 6. MẠNH TỬ Theo : Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, quyển Thượng (trang 433).
(Rút ở : Conficius et l'Humaniste Chinois của P. Đỗ Đình).
" Mạnh Kha là người đất Trâu, môn nhơn thọ nghiệp với Tử Tư, đạo đã thông mà đi du thuyết đến Tề Tuyên Vương, Tuyên Vương không dùng mà qua nước Lương.
Lương Huệ Vương không tin chắc lời nói của ông, cho rằng đó là những chuyện xa vời. Lúc đó, Tần dùng Thương quân, nước giàu quân mạnh, Sở, Ngụy dùng Ngô Khởi, chiến thắng những nước nhỏ, Tề Uy Vương, Tuyên Vương dùng Tôn Tử, Điền Kỵ, mà các nước chư hầu day mặt về phía Đông chầu nước Tề, trong thiên hạ chạy theo kế hiệp tung, liên hoành để công phạt lẫn nhau và xem đó là kế hoạch hay nhứt.
Trong khi đó thì Mạnh Tử thuật cái đức của Đường, Ngu, Tam Đại vì thế cho nên không hợp. Ông liền rút lui cùng với Vạn Chương, Công Tôn Sửu, thuật lại ý Trọng Ni mà viết quyển Mạnh Tử gồm 7 thiên ". Đây là truyện Mạnh Tử theo sách Sử ký, chỉ gồm có trên dưới 220 chữ.
Hơn nữa lại có những đoạn như " Thái sử Công nói : " Chuyện ấy có lạ gì " hay là vào lúc ấy ", v.v...Nếu lược bỏ những đoạn ấy ra thì số tài liệu còn dùng được chẳng còn lại bao nhiêu.
Các vì Tiên nho, khảo cứu về sanh bình của Mạnh Tử, thì có Trình phúc Tâm với quyển " Mạnh Tử biên niên lược; Đàm trinh Mặc với quyển " Mạnh Tử sự tích đồ phổ " ; Nhiêm khải Vận với " Mạnh Tử khảo lược ", Tào chi Thăng với " Mạnh Tử niên phổ " ; Định Tử Kỳ với " Mạnh Tử biên niên "...Diêm Nhược Cừ với " Mạnh Tử sanh, tốt, niên nguyệt khảo " ; Châu quảng Nghiệp với " Mạnh Tử tứ khảo " ; Thôi Thuật với " Mạnh Tử sự tích khảo ", đây là quyển sách nổi tiếng hơn hết.
Kiến hầu Công cho rằng tài liệu trong quyển Sử ký quá đơn sơ cho nên không dùng theo nguyên văn ấy để khảo sát mà gom góp các thuyết đáng tin cậy của nhiều tác giả để làm tài liệu lược khảo như sau :
Mạnh Tử lược khảo
Mạnh Tử tên Kha, người đất Trâu.
(Theo sách Hán chí, Triệu Kỳ viết : Chưa nghe ai nói tự là gì...Tương truyền gọi là Tử Dư, nhưng không có gì làm chắc.
Triệu Kỳ cũng viết : Mạnh Tử là công tộc nước Lỗ, hậu duệ của Mạnh Tôn, cho nên Mạnh Tử làm quan ở Tề, mẹ mất mà về để tang ở Lỗ.
Con cháu Tam Hoàn suy vi, nên phân tán ra các nước...
Diêm nhược Cừ viết : Mạnh Tử là hậu duệ của Mạnh Tôn, dòng công hầu ở Lỗ, rồi không biết ra đi đến đất Trâu lúc nào mà trở thành người ở Trâu...rồi sau về để tang ở Lỗ.
Khảo sát mộ bia của Mạnh mẫu, chúng ta cũng tìm thêm được một vài tài liệu. Mộ ở phía Bắc Trâu huyện, cách 20 dặm, phía Đông núi Mã Yên Sơn, ở đó không phải là nước Lỗ, chỉ nghi rằng hồi xưa thuộc về nước Lỗ, hiện nay nằm trong vùng Trâu huyện, vì hai nước ở sát bên nhau...Có sách chép mộ Mạnh mẫu ở cách không xa mộ Mạnh Tử, có thể nghi rằng cố lý của Mạnh Tư ûở vùng giáp giới Trâu-Lỗ.)
Ông sanh vào năm thứ tư đời Châu Liệt Vương.
Sách Sử ký, Sách Ẩn viết : Mạnh Tử chết vào năm Châu Noãn Vương năm thứ 26 (Nhâm Thân) thọ 84 tuổi, sách Địch thị biên niên theo thuyết trên và lại ghi thêm sanh vào ngày mùng 2 tháng 4.
Đời Châu Liệt Vương năm thứ tư nhằm năm 372 trước Tây lịch.
Thuở còn nhỏ, ông được nền giáo dục nghĩa phương của mẹ.
(Kinh Dịch viết : Còn nhỏ thì phải dưỡng cái " chánh ". Ngạn ngữ cũng có nói : " Dạy con dạy thuở còn thơ ", vì mẫu giáo ảnh hưởng đến con cái rất lớn.
Tương truyền Mạnh mẫu là Chưởng thị dạy con có nghĩa phương. Sách Liệt nữ truyện, thiên Mẫu nghi, sách Hàn thi ngoại truyện, có chép chuyện bà dời nhà 3 lần, và cắt đoạn lụa đang dệt để dạy con, cho đến ngày nay vẫn còn truyền làm giai thoại.
Sách Sử ký bổn truyện không có đề cập đến phụ mẫu của Mạnh Tử, nhưng sách Đề từ của Triệu Kỳ có viết : Cha chết sớm.
Mạnh Tử mất cha sớm, rồi sau mất mẹ, trong thiên Lương Huệ Vương sách Mạnh Tử có chép.
Sách Khuyết lý chí của Trần Oa, sách Tứ thơ nhân vật khảo của Tiết ứng Kỳ đều có viết : Mạnh Tử 3 tuổi, mồ côi cha, nhưng lại không biết căn cứ vào đâu.
Sách Địch thị biên niên, lại viết Mạnh mẫu là Lý thị, cha là Khích, tự Công Nghi.
Sách Liệt nữ truyện có chép : Lúc Mạnh mẫu cắt ngang đoạn lụa có nói : " Mẹ dệt mà có ăn. Nếu nửa đường bỏ mà không làm, thì đâu có thể có cho chồng mặc, và đâu có thể có ăn lâu dài ". Như thế thì lúc đó phụ thân của Mạnh Tử vẫn còn sống, nhưng vì Mạnh mẫu hiền, dạy con có phương pháp, nên vai trò của người cha bị lu mờ, người đời sau lầm lẫn mà cho là ông mất sớm khi Mạnh Tử còn nhỏ.
Khi ông lớn, thọ nghiệp với môn nhơn của Tử Tư và thành Đại Nho.
Ban đầu ông dạy học, rồi sau đi châu du, rồi sau cùng trở về quê hưởng tuổi già, trọn đời, việc làm rất giống Khổng Tử, ông đến gặp chư hầu, bắt đầu từ Trâu Mục Vương, lúc đó ông được 41 tuổi.
(Từ năm 40 tuổi trở về trước, Mạnh Tử chỉ dạy học, từ năm 40 về sau, đi châu du các nước, và sau 60 tuổi trở về an dưỡng tuổi già, như thế thì ông đi châu du các nước trong thời gian không quá 20 năm).
Ông từ nước Trâu qua Nhiệm, rồi từ Bình lục qua Tề, dưới thời Uy Vương làm quan ở Tề, chưa bao lâu, từ chức mà về quê.
Lúc qua Tống, gặp thế tử Đằng, sau thế tử lên ngôi, là Văn Công, Văn Công rước Mạnh Tử, Mạnh Tử từ Trâu qua Đằng rồi tìm cách bỏ nước Đằng qua Lương, ra mắt Lương Huệ Vương.
Huệ Vương mất, Tương Vương lên ngôi, Mạnh Tử rời nước Lương lại qua Tề. Rồi làm tân sư cho Tuyên Vương.
(Tân sư là lãnh tiền luơng mà không lãnh chức tước. Cho nên trong thiên Công Tôn Sửu, Mạnh Tử đã nói : " Không giữ chức quan thì không có trách nhiệm ".
Sung Ngu lại có nói : Làm quan mà không nhận lãnh chức tước. Lúc đó chức Tắc Hạ học sĩ ở Tề rất thạnh, không làm quan chức mà nghị luận về việc chánh, gọi đó là " Liệt Đại phu " Mạnh Tử cũng là một Liệt Đại phu).
Vua nước Yên là Khoái, nhường nước cho tôi là Tử Chi, trong nước loạn, Tề Tuyên Vương phạt Yên, lấy nước. Người Yên nổi lên chống Tề.
Người nước Tề cho rằng Mạnh Tử khuyên vua phạt Yên... Mạnh Tử liền bỏ nước Tề ra đi.
Yên Vương Khoái nhường nước, nhằm năm thứ 5 đời Thận Tịnh Vương, và năm đầu Noãn Vương. Nước Yên nội loạn, Tuyên Vương thừa cơn loạn kéo binh sang đánh, 5 tuần mà lấy nước Yên.
Người Yên nổi lên chống Tề.
Lúc ban đầu, Đại phu nước Tề là Trầm Đồng hỏi Mạnh Tử, nước Yên có thể đánh không ? Mạnh Tử đáp : " Được ".
Tề đã thắng Yên, Tuyên Vương hỏi : Nước Yên có thể lấy không ? Mạnh Tử đáp : Nếu dân Yên đồng ý thì có thể lấy, còn dân Yên không đồng ý thì không nên.
Tề đã lấy Yên, chư hầu mưu tính việc cứu Yên, Mạnh Tử khuyên Tuyên Vương bàn với người Yên lập vua mới. Đến lúc người Yên nổi lên chống lại, đa số người nước Tề đều đổ lỗi cho Mạnh Tử khuyên Tề đánh Yên, Mạnh Tử liền quyết ý rời bỏ Tề, mà bọn Thuần vu Khôn, Doãn Sĩ lại mỉa mai, nên chỉ có 3 đêm mà ra khỏi đất Hoạch, Tuyên Vương lại không cầm ông lại, nên Mạnh Tử dứt khoát ra về). [Xem thiên Công Tôn Sửu].
Từ đó ông qua nước Tống, nước Tiết, gặp lúc nước Lỗ khiến đệ tử Mạnh Tử là Nhạc chánh Khắc làm việc chánh, Mạnh Tử liền đến nước Lỗ, sau cùng lại bị Tàng Thương là người được vua sủng ái ngăn trở, ông lại trở về nước Trâu và an hưởng tuổi già.
(Khổng Tử mặc áo vải dẫn đệ tử đi châu du liệt quốc lúc cuối thời Xuân Thu, mở ra phong trào đi du thuyết, đến thời Mạnh Tử thì phong trào du thuyết đã thạnh hành.
Mạnh Tử đi châu du rất giống như Khổng Tử, nhưng Khổng Tử thì bị uy hiếp ở Khuôn, bị nguy ở Tống, bị tuyệt lương ở Trần, thường bị mỉa mai, còn Mạnh Tử thì có mấy mươi chiếc xe đi theo hộ tống, kẻ tùy tùng có đến mấy trăm, được chư hầu cung phụng đầy đủ.
Sở dĩ có chỗ khác nhau là vì hoàn cảnh, thời thế không giống nhau. Về chuyện du thuyết của Mạnh Tử, có rất nhiều nhà khảo cứu, nhưng cũng còn nhiều chỗ sai lầm về không gian và thời gian).
Năm Châu Noãn Vương thứ 26 ông mất, thọ 84 tuổi.
(Trong Sử Ký, sách Ẩn có ghi năm sanh và năm mất của Mạnh Tử. Trong Địch thị biên niên ghi Mạnh Tử mất vào ngày rằm tháng giêng.
Trong Niên Phổ của Tào chi Thăng, căn cứ theo cổ bia viết : Mạnh Tử mất vào ngày Đông chí. Người nước Trâu vì khóc Mạnh Tử mà bỏ lễ Đông chí, nhơn đó mà thành tục luôn. Vì nghi ngày Đông chí ấy không phải ở tháng Giêng nên đổi lại là ngày 15 tháng 11, v.v...
Theo lịch của nhà Châu thì tháng Giêng là tháng 11 của năm trước theo lịch nhà Hạ. Như thế, Đông chí tức là ở giữa tháng 11 của lịch nhà Hạ, nhưng tóm lại, Mạnh Tử mất vào ngày nào, tháng nào, năm nào, chỉ là truyền thuyết mà không có bằng chứng gì chắc chắn cả.
Mộ của Mạnh Tử hiện nay ở tỉnh Sơn đông, huyện Trâu, phía Bắc, cách 30 dặm, mộ nằm ở phía Đông núi Tứ Cơ sơn.
Dưới thời nhà Tống, Khổng đạo Phủ thú Đái Châu, tìm gặp mộ, liền sửa sang lại và cất miếu thờ, rồi Tôn Phục có làm bài ký về việc ấy.
Sách Mạnh Tử Tứ khảo của Châu quảng Mục có viết phía Bắc Đường khẩu sơn có mộ của Mạnh Tử, tức là mộ nầy.
Sách Sơn đông tỉnh chí có viết : Cố lý của Mạnh Tử ở Trâu huyện, hiện là Bác thôn, ở phía Bắc 30 dặm, trước nhà có Mạnh mẫu từ, như thế thì mộ ở cách ngôi nhà xưa không bao xa.
Hiện nay ở phía Nam Trâu huyện có Mạnh Tử miếu, là do huyện lịnh Châu Nhạc dưới thời Tống Huy Tôn, đời Tuyên Hòa dựng lên (1125 T.L.)
Sách Tục Văn hiến thông khảo chép : Vợ Mạnh Tử là Điền thị, con tên là Trạch. Sách Tam thiên chí viết : Con Mạnh Tử tên là Trọng Tử. Mạnh Tử niên phổ viết : Mạnh Trọng Tử tên là Trạch.
Con cháu của Khổng Tử, trong thiên Khổng Tử thế gia sách Sử ký ghi rất rõ, còn con cháu của Mạnh Tử không thấy có tài liệu nào ghi chép cả). Mạnh Tử đã mất, bọn đệ tử là Vạn Chương, Công Tôn Sửu liền biên thuật những lời nói của ông, gom lại thành bộ Mạnh Tử 7 thiên.
(Sách Hán chí, phần Nho gia, có ghi Mạnh Tử gồm 11 thiên. Triệu Kỳ, trong chú bổn của ông lại có 7 thiên, giống với bổn Mạnh Tử ngày nay.
Theo Sử ký bổn truyện và Triệu Kỳ đề từ, thì dường như 7 thiên ấy là do Mạnh Tử viết ra, nhưng thật là chỉ do đệ tử ghi chép lại mà thôi, trong phần sau, khi lược khảo về các tác phẩm, sẽ có những chứng cớ tường tận hơn.
Từ sau khi đệ tử Khổng Tử biên tập bộ Luận Ngữ, đệ tử của Mặc Tử biên tập lời nói của thầy để thành bộ Mặc Tử, cho đến đời Mạnh Tử thì thành thói quen.
Về đệ tử của Khổng Tử, thì sách Sử ký có ghi, còn đệ tử Mạnh Tử thì không thấy tài liệu nào ghi chép cả.
Trong sách nầy ghi tên những người ấy, hoặc có tên họ đủ, như Vạn Chương, Công Tôn Sửu, hay chỉ gọi là " Tử " như Nhạc Chánh Tử, Công Đô Tử, có khi cũng ghi là Trần Trăng hay là Trần Tử. Ngoài ra như Tào Giao, Cao Tử hay Cao Tẩu, Cao Tử là người đồng thời và lớn tuổi hơn, tất cả những người nầy đều không phải là đệ tử của Mạnh Tử.
*
 
4. Tuân Tử.
Sau Mạnh Tử, Tuân Tử cũng là một Nho gia đại sư, cho nên các học giả đời sau, hễ nhắc đến Mạnh Tử là nhắc luôn Tuân Tử.
Sách Sử ký hợp Mạnh Tử và Tuân Tử lại làm một truyện, cũng vì lý do ấy.
Tuân Tử truyện chép : " Tuân Khanh, người nước Triệu, tuổi 50 mới đến du " học " ở Tề (chữ " học " chép lầm). Bọn Điền Biền đã chết dưới thời Tề Tuyên Vương, mà Tuân Khanh còn là một lão sư.
Nước Tề luôn luôn sửa cái khuyết " Liệt đại phu " mà Tuân Khanh 3 lần làm chức Tế tửu.
Người nước Tề, có kẻ gièm pha ông, ông liền qua Sở, mà Xuân Thân Quân cho ông làm quan Lịnh đất Lan Lăng.
Xuân Thân Quân chết, rồi Tuân Khanh bị phế và nhơn đó, cất nhà ở luôn nơi đất Lan Lăng...Trước kia Lý Tư Thường là đệ tử ông, bây giờ làm tướng nước Tần. Tuân Khanh ghét cái chánh trị ô trược của đời, bọn vong quốc, loạn quân kế tiếp nhau, không thể làm đạo lớn được, mà chỉ lo về việc bói toán, phù thủy, tin số mạng. Bọn tầm thường, câu nệ như Trang Châu lại hoạt kê việc làm nên hư của Nho, Mặc viết ra thành mấy vạn lời rồi mới qua đời...và luôn đó được chôn ở Lan Lăng. "
Sách Sử ký ghi chuyện Tuân Khanh đơn giản như thế, hơn nữa tên ông là gì không thấy ghi rõ.

Hình 7. TUÂN TỬ
Rút trong : Trung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc quyển 1 (trang 94).
*
Dưới thời Tây Hán, Lưu Hướng hiệu đính sách Tuân Tử, ghi tên là Tôn Khanh tân thơ, ông đã ghi về chuyện của Tuân Khanh như sau :
Tuân Khanh tên Huống, người nước Triệu. Vào lúc Tề Uy Vương và Tuyên Vương, tụ hiền sĩ trong thiên hạ ở Tắc Hạ và tôn kính, thương yêu, như Trâu Viễn, Điền Biền, Thuần Vu Khôn, số người như thế thật đông và gọi đó là " Liệt đại phu ", họ được người đời khen tặng, và có kẻ đã viết sách châm biếm đời.
Lúc đó Tôn Khanh đã có tài, tuổi 50 mới bắt đầu đi du thuyết đến thời Tề Tuyên Vương thì Tôn Khanh đã thành một lão sư được trọng vọng.
Người nước Tề, có kẻ gièm pha Tôn Khanh, ông liền qua Sở, Sở tướng là Xuân Thân Quân cho ông làm quan lịnh đất Lan Lăng.
Có người nói với Xuân Thân Quân : " Vua Thang dấy nghiệp có 70 dặm, vua Văn Vương 100 dặm, Tôn Khanh là người giỏi, mà lại cho đất 100 dặm, nước Sở sẽ bị nguy chăng ? "
Xuân Thân Quân liền tạ từ Tôn Khanh.
Tôn Khanh qua Triệu, sau đó, có người lại nói với Xuân Thân Quân : Ông Y Doãn bỏ nhà Hạ mà vào nhà Ân, nhà Ân nên nghiệp vương mà nhà Hạ mất. Quảng Trọng bỏ nước Lỗ vào nước Tề, mà nước Lỗ yếu, nước Tề mạnh, cho nên kẻ hiền ở đâu, thì vua được tôn, nước được yên, bây giờ Tôn Khanh là kẻ hiền trong thiên hạ, ông bỏ nước nào ra đi, nước ấy có yên chăng ?
Xuân Thân Quân lại sai người đến mời Tôn Khanh, Tôn Khanh viết thơ cho Xuân Thân Quân, chua chát với nước Sở. Xuân Thân Quân giận liền không mời nữa.
Sau đó, Xuân Thân Quân mất, ông liền làm nhà ở Lan Lăng.
Trước kia, Lý Tư Thường là đệ tử ông, bây giờ làm tướng cho Tần, và nhóm Hàn Phi, hiệu thuyết với ông...cho đến lúc Tần dùng Ứng Hầu làm tướng quốc, đều không thể dùng ông...
Ông đến nước Triệu, bàn luận việc binh với Tôn Tẩn, trước mặt Hiếu thành Vương, Tôn Tẩn nói về việc biến trá trong việc binh, Tôn Khanh lấy việc dùng binh theo vương đạo để vấn nạn, Tôn Tẩn không đáp được...và vì thế ông không được dùng.
Tôn Khanh không được đời dùng, về an dưỡng tuổi già ở Lan Lăng, ông ghét các chánh sách của đời ô trược, bọn vong quốc, loạn quân bè đảng nhau, đại đạo không thi hành được, mà chỉ chạy theo đồng bóng, bói toán, tin số mạng, bọn tầm thường như Trang Châu lại hoạt kê, làm rối loạn phong tục, vì thế mới suy diễn cái đạo đức và việc làm nên hư của Nho, Mặc, ghi chép mấy vạn lời mà sau đó qua đời, và được chôn ở Lan Lăng.
Người Lan Lăng giỏi về học vấn, là cũng nhờ Tôn Khanh vậy. Đến nay bậc trưởng lão còn khen ông : người Lan Lăng thích chữ nghĩa là nhờ ông...là vì bắt chước theo ông vậy.
Tài liệu nầy so với Sử ký bổn truyện thì có phần đầy đủ hơn, nhưng chỗ sai lầm thì cũng y như trong Sử ký.
Trong sách Tuân Tử lược khảo có chép thân thế của Tuân Tử, nhưng không y theo tài liệu của Sử ký, mà chỉ căn cứ theo tài liệu của Lưu Hướng.
Xin chép ra sau :
Tuân Tử Lược Khảo
Tuân Tử tên Huống, người nước Triệu, gọi là Tuân Khanh là người đương thời tôn ông vậy.
Cũng gọi là Tôn Khanh, Tuân thị, hậu duệ của Tuân Bá ngày xưa, chữ Tuân xưa có chữ " phụ " một bên, chữ Tuân hay Tôn, cũng là một âm mà chuyển ra.
Tuân Tử thường bàn luận việc binh với Lâm võ Quân, trước mặt vua Triệu Hiếu Thành Vương, ông ra mắt chư hầu, bắt đầu từ lúc đó, ông lại thường vào nước Tần ở phía Tây, ra mắt Chiêu Vương và Ứng Hầu Phạm Thư, lúc đó tuổi Tuân Tử chưa đến 50.
(Sách Tự lục và Hồ thị đều cho Lâm võ Quân là Tôn Tẩn, như thế là sai.
Tôn Tẩn giúp tướng nước Tề là Điền Kỵ, đánh bại binh Ngụy ở Mã Lăng giết tướng Ngụy là Bàng Quyên vào năm thứ 28 đời Châu Hiển Vương (341 trước T.L.) còn Triệu Hiếu Thành Vương lên ngôi vào năm thứ 50 đời Châu Noãn Vương (265 trước T.L.) như thế cách nhau đến 86 năm, như thế thì Tôn Tẩn đâu có thể nào ở với Hiếu Thành Vương được.
Sách Tuân Tử tập giải của Vương tiên Khiêm có phân tích rõ điều nầy).
Năm 50 tuổi, ông bắt đầu đi thuyết đến nước Tề, lúc đó là năm đầu của Tề vương Kiến...Nước Tề sắp xếp về Liệt Đại phu, vì Tuân Tử tuổi tác và đức hạnh đều cao, cho nên nhiều lần được tôn làm Tế tửu, ông thường bàn luận với tướng quốc nước Tề, nhưng sau cùng không được dùng.
Ông bỏ Tề qua Sở, nhằm năm thứ 8 Sở Khảo Liệt Vương, tức Tề vương Kiến năm thứ 10. Tướng quốc nước Sở là Xuân thân Quân, cho Tuân Tử làm quan Lịnh đất Lan Lăng, nhơn đó mà Tuân Tử cất nhà luôn ở Lan Lăng.
Khảo Liệt Vương ở ngôi 25 năm, sau khi mất, Xuân thân Quân bị giết, lúc đó Tuân Tử vẫn còn.
Tuân Tử đã an dưỡng tuổi già luôn ở Lan Lăng, bèn dạy học, viết sách, đệ tử ông như Hàn Phi, Lý Tư, Phù khâu Bá, đều nổi danh sách Hán chí phần Nho giáo, có Tuân Khanh Tử, tự Tuân Tử, cho đến bây giờ vẫn còn.
[Hàn Phi và Lý Tư thường thọ nghiệp với Tuân Tử, trong sách Sử ký, trong phần Lý Tư truyện và Hàn Phi truyện có chép điều nầy. Phù khâu Bá thường học kinh Thi với Tuân Tử, thấy có chép trong Hán thơ. Ba người nầy là những đệ tử nổi tiếng nhứt của Tuân Tử.
Theo sách Hán chí thì sách Tuân Tử gồm 33 thiên, Lưu Thượng trong sách Tự Lục thì ghi 32 thiên, giống với bổn chúng ta có ngày nay].
Tuổi thọ của Tuân Tử và ngày sanh, ngày qua đời của ông, không có tài liệu gì dùng để xác định được cả. Con cháu của ông cũng không có sách vở gì ghi lại.
*
5. Lão Tử.
Lão Tử là người của phái Đạo gia tôn sùng, nhưng cũng có người cho rằng Lão Tử là người khai tổ cho Bách Gia Chư Tử.
Gần đây, Giang Tuyền, trong sách " Đọc tử hộ ngôn " có một thiên : " Luận về Đạo gia, và Bách gia cũng từ đó mà ra... " tức là suy tôn Lão Tử là người khai tổ cho Bách Gia Chư Tử.
Giang Tuyền đã viết : " Đời thượng cổ, tam đại, học ở nhà quan, mà không học ở đâu, người dân quê mùa không biết làm sao để lên chỗ " đại nhã "  được...[đến chỗ có học tập] duy chỉ có Lão Tử, đời đời làm sử quan, trong tay nắm được chìa khóa kho học mấy ngàn năm, giữ quyền mở đóng, cho nên khi Lão Tử ra, là tiết lộ được cái chất chứa bí mật của trời, đất, gom góp được cái đại thành của cổ kim, học giả noi theo, và thiên hạ cũng cúi đầu theo. Cái học của Đạo gia đã đông, rồi lại chia ra nhiều nhánh, mỗi người nắm được một mối của thầy, diễn ra mà thành cái học của 9 phái, rồi thành tên gọi là Cửu lưu vậy...

Hình 8. LÃO TỬ
Trích trong Trung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc, quyển 1 (trang 70)
Thật ra, đời xưa, việc học ở vua quan, các nhà học giả đều công nhận điều đó, Lão Tử làm quan giữ kho sách nhà Châu, nắm chìa khóa kho học, điều đó có sách Sử ký làm căn cứ...nhưng gọi là " đời đời làm sử quan " đó chỉ là suy tưởng theo chế độ thế cha truyền con nối của thời xưa mà thôi.
Lão Tử không có như Khổng Tử, mở trường dạy học, thì " học giả noi theo...thiên hạ cúi đầu... " và " cái học của Đạo gia bèn phổ cập trong dân gian ", " môn đệ của Đạo gia đã đông...Mỗi người nắm được một mối của thầy ", v.v...đó chỉ là ức thuyết.
Và " Phân ra từng phái mà đi...diễn thành cái học của 9 nhà "...lại càng không có gì để làm bằng chứng xác đáng cả.
Họ Giang đã nói : " Từ đại gia mà suy diễn ra cái học của 9 môn phái, như thế tức là muốn nói 10 phái trong Bách Gia Chư Tử, trừ phái Đạo gia vậy ".
Trong Hán Chí gọi là Cửu lưu, thì lại là trong số 10 môn phái, trừ ra phái Tiểu thuyết gia, họ Giang chỉ ước đoán, lập luận thiếu bằng chứng xác đáng, nên không có gì đáng tin.
*
Trong sách Sử ký có chép tên Lão Tử, vậy Lão Tử là người như thế nào ? Những tài liệu đã chép có xác thực, có đáng tin hay không ? Điều đó còn cần phải tìm hiểu thêm.
Trong Sử ký, Lão Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi đồng viết chung trong một truyện, sau đây xin chép lại phần Lão Tử truyện khảo của tiên nho Kiến Hầu, tìm hiểu Lão Tử qua Lão Tử tài liệu của sách Sử ký.
Lão Tử Truyện Khảo
Trong sách Sử ký, Lão Trang, Thân Hàn liệt truyện được sắp vào phần thứ 3, trong sách Sách Ẩn thi sắp Bá Di liệt truyện vào phần 1, và Lão Tử, Trang Tử, Hàn Phi đồng truyện vào phần 3, nhưng trong sách Chánh nghĩa thì lại sắp Lão Tử, Trang Tử vào phần đầu của liệt truyện, với lời chú : " Vào năm khai nguyên thứ 23, Lão Tử và Trang Tử được phụng sắc lên phần đầu liệt truyện, đứng trước Bá Di. "
Lão Tử...
[Về phần danh xưng Lão Tử co ùnhiều giả thuyết khác nhau :
1. Giải thích theo người đời trước thì căn cứ theo Thần tiên truyện, và Huyền diệu nội thơ, cho rằng Lý mẫu mang thai 81 năm mà sanh, sanh ra đầu đã bạc, cho nên mới gọi là Lão Tử.
Thuyết nầy thật là hoang đường, không có gì đáng tin cả.
2. Sách Chánh nghĩa dẫn lời Trương quân Tướng viết : " Lão Tử là hiệu chớ chẳng phải tên, Lão là khảo, tìm hiểu, khảo sát, Tử là chăm, chăm học, tức là người tìm hiểu nhiều và dạy dỗ, đạt thành cho nhiều người khác...nhờ đó mà sanh ra vạn vật, giúp đỡ sự hóa sanh cho muôn loài mà không sót một ai. "
Thuyết nầy thật là ba hoa, rỗng tuếch, không có một ý nghĩa gì đáng tin được.
Dưới thời Châu Tần, học giả được gọi là " Tử " đó là việc phổ thông của thời ấy, tại sao lại giải thích chữ " Tử " thành ra là " nhiều " " chăm " hay là " siêng năng " ?
3. Ngụy Nguyên có viết : Trang Tử nói Lão Tử ở đất Bái, Bái là đất của Tống, mà nước Tống có dòng họ Lão, như thế Lão Tử là người đất Bái mà họ " Tử " chăng ? Rồi chữ " Tử " lại chuyển thành chữ Lý vì âm vận và hình trạng chữ giống nhau chăng ?
Thuyết nầy cũng còn có thể nghe được, nhưng nếu vốn là họ Lý thì tại sao không thấy viết là Lý Tử ?
4. Có thuyết cho rằng ông trường thọ, cho nên mới gọi là Lão Tử. Đời trước cho rằng Lão Tử sống lâu, chớ không phải vì tu tiên, dưỡng thọ mà đặc biệt sống lâu đến 160 hay 200 tuổi.
Lão Tử là người ẩn sĩ, ông thích ở ẩn, vô danh, không muốn chường mặt với đời, cho nên không ai biết tánh danh ông là gì, chỉ thấy ông tuổi già, có học thức, nên mới gọi là Lão Tử].
Dưới thời Châu Tần, học giả được gọi là " Tử " bắt đầu từ Khổng Tử. Khổng Tử thường làm quan Tư Khấu nước Lỗ, cho nên đệ tử mới gọi là " Tử ", sau đó được quan dùng để tôn xưng với thầy, cho nên ngày nay chữ Tử được xem như là tiên sinh...là thầy...Thế thì Lão Tử cũng như " Lão tiên sinh ", đó không phải là một tên riêng.
Ông là người Khúc nhơn Lý, làng Lệ, huyện Khổ nước Sở.
[Khổ huyện trước kia thuộc nước Tống, dưới thời Xuân Thu, Sở diệt Trần, Khổ huyện lại thuộc Sở, cho nên mới gọi Sở, Khổ huyện.
Sách chánh nghĩa viết : " Lệ (lệ hương) đọc là Lại, sách Tấn Thái Khương địa lý có viết : Thành Đông Khổ huyện có Lại hương Từ, là chỗ Lão Tử sanh ra.
Cố thành Khổ huyện ngày nay thuộc tỉnh Hà nam, huyện Lộc ấp, cách phía Đông 10 dặm.
Sách Thúy kinh chú dẫn lời của Vương Phụ đời Đông Hán chép theo Lão Tử thánh mẫu bia cho rằng Lão Tử sanh ở vùng Khúc Oa. Theo Lão tử Minh, thì Lão Tử là người đất Tương, còn theo sách Trang Tử thì chép Lão Tử là người đất Tương của nước Trần...Theo Diêu Đỉnh thì có lần Dương Châu đã đến đất Bái để gặp Lão Tử, vì thế có thuyết cho rằng Lão Tử là người đất Bái thuộc nước Tống.
Theo Bá Tiềm, trong sách Thủy kinh chú có viết : " Phía Đông Nam đến đất Bái có sông Oa thủy. Oa thủy lại chảy về phía đông qua phía nam thành Khổ huyện, tức là đất Tương dưới thời Xuân Thu.
Dưới thời Vương Mãng đất ấy lại đổi tên thành Lại Lăng, con sông lại chảy về phía đông qua phía nam thành Lại Hương, rồi lại chảy về phía bắc, qua phía đông miếu Lão Tử, qua phía nam thành của Tương huyện.
Tương huyện bị hoang phế, bấy giờ thuộc Khổ huyện, Lão Tử sanh ở chỗ ngoặc của sông Oa [Khúc Oa]. Chữ Lệ và chữ Lại, âm giống nhau, Lệ hương tức Lại hương, như vậy thì Khúc nhơn Lý, có phải ngay tại chỗ quanh của sông Oa chăng ? [Khúc Oa].
Sách Hậu Hán thơ, phần Quận quốc chí có chép " Huyện Khổ, dưới thời Xuân Thu gọi là Tương ".
Tương cũng thuộc về nước Trần rồi sau thuộc về Sở, thành cũ của Tương huyện nay ở phía Đông cách 15 dặm của Lộc ấp huyện. Như thế thì 3 địa điểm Khổ, Tương, Bái, cách nhau không bao xa vậy].
Ông họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, được tên thụy là Đam.
[Trong Sách Ẩn có viết : Cát Huyền nói : " Lý mẫu sanh ông, nhơn đó lấy theo họ mẹ "...Sanh ra mà chỉ cây Lý, nhơn đó lấy làm họ luôn.
Hứa Thận viết : Đam là lỗ tai dài...cho nên tên là Nhĩ mà tự là Đam...gọi là Bá Dương là không đúng.
Diêu Đinh, trong Lão Tử chương nghĩa đã viết : Bái là đất nước Tống, như thế thì Lão Tử là người Tống và Tử có phải là họ không ?
Chữ Tử và chữ Lý âm cũng gần nhau...đó là một thuyết nói về Lão Tử họ Lý...so với thuyết trên nói ông theo họ mẹ, hay là " chỉ cây Lý " thì có phần hữu lý hơn.
Theo sách Ẩn, trong nguyên văn pho Sử ký, không thấy có 4 chữ " Bá Dương, thụy là... " mà chỉ viết có tên Nhĩ, tự Đam mà thôi.
Lương ngọc Thằng trong sách Sử ký chí nghi có viết : " Cổ thơ thời Tiên Tần, không thấy gọi Lão Tử là Bá Dương. Vương niệm Tôn trong Đọc thơ tạp chí cũng viết : Lão Tử tên Nhĩ, tự là Đam... ". Nhưng trong thiên Chư Tử của sách Văn Tâm Điêu Long có viết : " Bá Dương coi về việc Lễ, mà Trọng Ni đến hỏi, để đạo đức có thứ lớp dạy dỗ trăm dân...như thế thì dưới thời nhà Lương, có ai đã thêm vào pho Sử ký 4 chữ : " Bá Dương...thụy là... " đã kể trên].
Dưới thời nhà Châu, làm quan giữ kho sách.
[Trong thiên Thiên vấn, sách Trang Tử viết " Trưng tàng sử " chữ trưng có nghĩa là gom góp...Thời xưa, sách vở chỉ được chứa ở nhà vua quan, có quan lo riêng về việc đó.
Sách Trương thang truyện có viết : " Lão Tử làm trụ hạ sử " là vì lúc hội triều, ngôi vị là ở dưới trụ, cầm thẻ, ghi việc...cũng như ngày nay, người làm thơ ký ghi chép những lời bàn bạc trong hội nghị vậy].
Khổng Tử qua nhà Châu, đến vấn Lễ với Lão Tử. Lão Tử nói : " Các người mà ông nói đó, người và xương đều mục hết cả rồi, duy lời nói của người ấy thì còn tại đây.
Người quân tử đắc thời thì đi xe, chẳng đặng thời thì đầu rối mỏi mệt mà đi bộ, tôi có nghe, người buôn bán giỏi, chứa hàng hóa kỹ, mà xem như trống rỗng, người quân tử chứa đầy đức mà dung mạo như ngu.
Hãy bỏ cái ngạo khí và cái nhiều lòng dục của ông, bỏ luôn cái sắc làm cao và cái chí, cái dâm, vì những cái ấy đều không có ích gì đối với thân ông.
Tôi nói với ông, chỉ có bấy nhiêu mà thôi ! "
Khổng Tử ra về, bảo với đệ tử :
" Con chim...ta biết nó bay như thế nào, con cá, ta biết nó lội như thế nào, con thú, ta biết nó chạy như thế nào, nó chạy ta có thể làm lưới, nó lội, ta có thể dùng câu, nó bay ta có thể dùng tên, còn như rồng, ta không thể biết được nó cỡi mây bay mù lên trời, hôm nay ta ra mắt Lão Tử, ông ấy cũng như rồng vậy ".
[Chuyện Khổng Tử hỏi Lễ với Lão Tử, cũng thấy trong phần Khổng Tử thế gia trong Sử ký.
Thiên " Tăng Tử vấn " trong Lễ ký, ghi ngôn, hạnh của Lão Tử có 4, tất cả đều có liên quan đến Lễ...như thế thì việc Khổng Tử đến hỏi Lễ với Lão Tử là đáng tin được.
Thiên Tăng Tử chế ngôn trong sách Đại đái có viết : " Người đi buôn giỏi chứa kín mà như không có gì...Người quân tử có nền giáo dục cao mà như không ".
Thiên Ngoại vật trong sách Trang Tử có chép : Lão lai tử nói với Khổng Tử : Khâu ơi ! Thân hình ngươi kiêu và cái dung nhan ngươi ra dáng người trí...như thế là quân tử sao ?
Câu nầy với đoạn ghi lời nói của Lão Tử đại đồng tiểu dị...Những lời ghi trong sách Trang Tử, cũng thấy trong thiên Kháng chí sách Khổng tòng tử, nhưng lại cho Khổng Tử là Tử Tư.
Tử Tư đâu có thể là Khổng Tử được, biết đâu Lão lai tử nói với Tử Tư mà người ta lại lầm lẫn là Lão tử nói với Khổng Tử chăng ?
Trong thiên Thiên Vận lại có viết : " Khổng Tử ra mắt Lão Đam, ra về, 3 ngày không trò chuyện gì cả.
Đệ tử thưa :
-Phu Tử ra mắt Lão Tử...có nhìn thấy được gì chăng ?
Khổng Tử đáp :
- Bây giờ ta mới thấy rồng, rồng hợp mà thành " thể ", tan mà thành " chương ", cỡi lên khí mây mà dưỡng bởi âm dương...ta mở miệng mà không thể ngậm lại được...ta có tìm thấy được gì ở Lão Tử đâu ?
Sách Lão Tử truyện, được tán duơng là như rồng, là do theo ý Trang Tử].
Lão Tử trau dồi dạo đức, cái học của ông chuyên về tự ẩn, không danh.
Ông ở nhà Châu lâu, thấy nhà Châu suy, liền ra đi, đến cửa ải, quan lịnh doãn là Hỉ nói :
- Thầy sắp đi ẩn chăng ? Vậy hãy cố gắng vì tôi mà viết sách.
Vì thế Lão Tử liền viết sách, gồm 2 thiên thượng, hạ, nói cái ý đạo đức hơn 5000 chữ, rồi đi.
Sau đó, không ai biết ông như thế nào.
[Sách Sách Ẩn và Chánh Nghĩa, chữ " quan, cửa ải " đây là Hàm cốc quan hay là Tán quan, chưa có tài liệu nào chắc chắn để xác định được.
Tán quan thì ở vùng Trần thương đất Kỳ Châu, không phải là con đường từ nhà Châu vào đất Tần, còn Hàm cốc quan thì ở vùng Đào lâm đất Thiểm Châu, đó là con đường từ nhà Châu vào đất Tần, như thế thì chắc chắn phải là Hàm cốc quan.
Cửa Hàm cốc quan không biết được đặt vào năm nào, nhưng vào thời Khổng Tử, đất Nhị hao còn thuộc nước Tần, nếu Lão Tử đồng thời với Khổng Tử, như vậy thì lúc đó chưa có Hàm cốc quan.
Quan doãn là chức quan giữ cửa ải, lịnh doãn là một chức quan của Sở, nhưng ở đó không phải là đất Sở, như thế thì chữ " lịnh " ở đây sai.
Theo hơi văn ở đây thì quan doãn nhìn thấy Lão Tử đến nên mừng, nhưng người đời sau lại nói quan doãn tên Hỉ, rồi lại có quyển sách để tên quan doãn Hỉ viết, lại càng sai hơn...
Nói về đạo đức đến hơn 5000 chữ, tức là quyển Lão Tử còn cho đến ngày nay.
Quyển sách ấy có phải tự tay Lão Tử viết ra không ? Điều đó còn phải suy xét cho thật kỹ.
Mặc dù lúc đó đã có phong trào tư nhơn viết sách, nhưng dùng dao khắc, bôi sơn vào tre, trong lúc trên đường đi, chỉ trong một thời gian ngắn để thành một pho sách đến 5000 chữ thật là một điều khó tin...hơn nữa, thể tài của quyển sách, so với các quyển của Chư Tử đương thời thì không giống nhau.
Giọng văn của sách ấy y như những câu cách ngôn được gom góp quyết không phải do một người, trong một thời gian nào đó đã sáng tác ra. [Xem thêm phần dưới quyển sách nầy, đoạn tìm hiểu về tác phẩm của Lão Tử].
Lão Tử đã cố ý tự ẩn, vô danh, hơn nữa, sắp đi lánh đời, tại sao lại giữa đường còn hấp tấp cố gắng để viết cho quan doãn một quyển sách ? Tóm lại, về phương diện tình lý, không có chỗ nào đáng tin cả...Câu nói : " Không một ai biết sau đó ông như thế nào " đã chỉ rõ ý lánh đời của ông...và cũng vì thế mà phương sĩ đời sau mới có truyền thuyết " Lão Tử đi qua phía Tây đến Lưu sa hà [sa mạc] rồi hóa ra người Hồ... " như thế lại lầm thêm là Lão Tử đã qua Ngọc môn quan.
Thiên Dưỡng sanh chủ trong sách Trang Tử chép Lão Đam chết, Tần Thất đi điếu, v.v...
Sách Trang Tử, phần nhiều là ngụ ngôn, nhưng lại không ghi " sau đó không biết ông ấy như thế nào " như thế đã thấy rõ chuyện Lão Tử qua Lưu sa hà là không có thật.
Đến như các việc trong sách Sách Ẩn, Liệt dị truyện, Liệt tiên truyện ghi rằng " Tử khí từ phương Đông đến ", " Cỡi trâu xanh qua cửa ải " đều là những chuyện hoang đường do các phương sĩ đời sau ngụy tạo ra mà thôi.]
Hoặc có người nói : Lão lai tử cũng ngưòi nước Sở, viết sách 15 thiên...nói cái dụng ý của Đạo gia, cùng đồng thời với Khổng Tử...
[Chữ " hoặc " ở đây có ý muốn nói Lão lai tử là Lão Tử, trong sách Hán chí, phần Đạo gia, chép : có sách Lão lai tử 16 thiên, có thuyết nói : đồng thời với Khổng Tử.
Nhưng theo Khổng Tòng Tử thì đồng thời với Lão lai tử là Tử Tư phần trước đã có trình bày.
Trong bài tựa của Đạo đức kinh, Tất Ngươn có viết : trong Tả truyện có " Lai câu ", Lai là họ, để chữ Lão lên trên là vì có tuổi thọ, cũng như sư phụ của Liệt Tử là Lão Thương thị vậy.
Trong Hán chí, tuy ghi số thiên trong sách ấy, có nhiều hơn một thiên, nhưng cũng là quyển sách ấy.
Phần đầu của phần khảo cứu về truyện Lão Tử có viết : "  Lão Tử là người ở Khúc nhơn Lý, Lệ hương, huyện Khổ, nước Sở " cho nên ở đoạn nầy có viết : " cũng người nước Sở ".
Sách Lão Tử khảo dị, nghi tài liệu nầy cho rằng Lão Tử là người nước Sở, là vì lầm lẫn với Lão lai tử, nhận xét như thế, có phần đúng, vì theo truyền thuyết, người ta thường lầm lẫn Lão lai tử và Lão Tử, cho là một người, cho nên Sử ông mới ghi đoạn nầy có chữ " hoặc " ở trên.]
Lão Tử mà thọ đến hơn 160 tuổi, hoặc có người nới đến hơn 200 tuổi, là vì ông ta dưỡng mà được thọ đến mức ấy.
[Đoạn nầy trong sách Sử ky sắp lầm, nên dời vào đoạn văn sau mới đúng].
Từ sau khi Khổng Tử mất 129 năm, mà sử nhà Châu, Thái sử Chiêm ra mắt Tần Hiếu Công nói :
- Ban đầu nước Tần hợp với nhà Châu rồi chia ra 500 năm rồi sau lại hợp, hợp 70 năm mà Bá vương xuất hiện.
Hoặc có kẻ nói :
- Chiêm tức là Lão Tử
Cũng có kẻ nói :
- Không phải.
Là vì Lão Tử thọ hơn 160 tuổi, hay có kẻ nói hơn 200 tuổi [là vì trau dồi đạo mà duỡng được thọ].
[Đoạn nầy lại ghi thêm một thuyết khác, nói rằng Thái sử Chiêm của nhà Châu, vào nước Tần gặp Hiếu Công, tức là Lão Tử.
Trong thiên Bất nhị của Lã thị Xuân Thu, ghi chung Lão Đam, với Khổng Tử, Mặc Địch, Quan doãn và Lão Đam là Lão Tử.
Sách Thuyết văn chép : " Đam tức là tai dài, thòng xuống " lại chép : " Chiêm, cũng là tai thòng, ở phương Nam là nước Chiêm nhĩ ". Như thế thì nghĩa các chữ Đam và Chiêm giống nhau.
Lý Nhĩ tức Đam, thường làm chức Thủ tàng sử nhà Châu, chữ Chiêm và chữ Đam lại giống nhau, mà Chiêm cũng từng làm Thái sử nhà Châu, cho nên có thể lẫn lộn là một người.
Chiêm vào nước Tần ra mắt Hiếu Công theo Tần Bản Kỷ thì vào năm thứ 11 đời Hiếu Công, mà Hàm cốc quan được dựng lên trước năm ấy tức là năm 10 đời Hiếu Công, như thế người đi về phía Tây, qua cửa ải là Thái Sử Chiêm nhà Châu, chớ không phải Thủ tàng sử nhà Châu là Lý Nhĩ...Bằng chứng như thế là khá chính xác.
Theo Bá Tiềm, việc Thái Sử Chiêm đến Tần Hiếu Công thấy có chép trong Châu Bản Kỷ và Tần Bản Kỷ. Châu Bản Kỷ chép " Hợp 17 năm " chép " 70 năm " là sai lầm vì đảo ngược chữ trong Tần Bản Kỷ lại chép " Hợp 77 năm " như thế là dư một chữ " Thất " [7].
Chuyện nầy, Bản Kỷ chép xảy ra vào năm Liệt Vương thứ hai, còn Tần Bản Kỷ thì vào năm Hiếu Công thứ 11, lúc đó sau ngày Khổng Tử mất đến 53 năm, mà ghi là " Khổng Tử mất, cho đến nay là 129 năm " thì là sai].
Lão Tử là một ẩn quân tử, con Lão Tử tên là Tôn, Tôn làm tướng nước Ngụy, được phong đất Đoạn can.
Con Tôn là Chú, con Chú là Cung, huyền tôn của Cung là Giả, Giả làm quan dưới thời Hán Văn đế.
Con của Giả là Giải làm thái phó cho Giao tây Vương là Cung, vì thế cất nhà luôn ở đất Tề.
[Lão Tử là một " ẩn quân tử " nhưng lại chép tên con cháu của ông rất rõ ràng, Lão Tử chỉ thích lánh đời, không chường mặt, lại ra cửa ải, đi về phía Tây và mất tích luôn.
Truyền thuyết ấy dễ làm cho các phương sĩ dễ thêu dệt thành những chuyện hoang đường.
Dưới thời Võ đế, ông nầy rất thích bọn phương sĩ, và các chuyện về thần tiên, thế nên Sử công cố ý chép đoạn nầy rõ ràng để chứng minh Lão Tử là một người thường như mọi người khác, mà không phải là một thần tiên gì cả.
Dụng ý của Sử công thật là sâu sắc].
Người đời, hễ học Lão Tử, thì chê Nho học, học Nho thì lại chê Lão Tử [Đạo không đồng, thì không bàn luận với nhau] như thế là phải chăng ?
[Lý Nhĩ vô vi, tự hoá và thanh tịnh để tự chánh].
[Đoạn nầy nói về việc Nho và Đạo gia vì đạo bất đồng mà chê lẫn nhau để kết luận. Còn " Đạo không đồng, thì không bàn luận với nhau ", đó là dùng câu của Khổng Tử [trong thiên Vệ linh Công sách Luận Ngữ].
Câu cuối cùng, cùng với đoạn văn trên không nối tiếp ý nhau, và cũng không phải là câu dùng để kết luận, nghi là người đời sau đọc sách Sử ký ngẫu nhiên ghi thêm vào, làm cho người sau lầm lẫn đó là chánh văn. Nên bỏ cho hợp lý].
*
Lão Tử truyện trong sách Sử ký đến đây là chấm dứt, trong truyện có chép tên 3 người :
1. Thủ tàng thất sử nhà Châu là Lý Nhĩ, Khổng Tử có đến hỏi về việc Lễ.
2. Ẩn sĩ người nước Sở là Lão lai Tử.
3. Châu Thái sử Chiêm vào nhà Tần ra mắt Hiếu Công...
Ba người ấy đều khác nhau, nhưng truyền thuyết lại lầm mà hợp lại làm một, nhưng xét lại kỹ các đoạn văn dẫn chứng trên, thì tất cả 3 người ấy đều không phải là Lão Tử của phái Đạo gia, vì Lão Tử là một tên chung, nhưng không phải là một danh từ riêng, chỉ dùng để gọi những học giả lớn tuổi, cũng như ngày nay chúng ta gọi là " Lão tiên sinh " vậy, vì thế cho nên chúng ta cũng có thể dùng tên Lão Tử để gọi Lý Nhĩ, Lão lai Tử và Thái sử Chiêm.
Người đời sau không tìm hiểu cho chính xác nên lầm lẫn, hợp ba người ấy làm một, làm cho lộn xộn thêm, càng khó phân biệt.
Về Trang Tử, trong thiên Thiên hạ, người gọi là Lão Đam là một " bác đại chơn nhơn " của thời xưa, do nhóm Đạo gia truyền thuyết suy tôn..., đó là một nhân vật lý tưởng được đặt để ra mà thôi, thuyết trên đây, trong các sách Thù tứ khảo tín lục và Trung Quốc Triết học sử của Phùng hữu Lan đều có đề cập đến.
Như thế thì quyển Lão Tử còn đến ngày nay, đó là một quyển sách góp những thành ngữ và cách ngôn được truyền tụng của phái Đạo gia dưới thời Chiến quốc [xem thêm phần lược khảo tác phẩm của ở đoạn sau] mà chẳng phải là một tác phẩm của Lão Tử viết ra khi qua Hàm cốc quan.
Trong quy?n Lão Tử có những lời trái ngược hẳn với đạo Nho, nếu đó là tác phẫm của Lão Tử người đồng thời với Khổng Tử, tất nhiên thế nào cũng bị Mạnh Tử sau nầy đã kích dữ dội, nhưng trong quyển Mạnh Tử ta không hề thấy điều đó.
Tóm lại, quyển Lão Tử, không phải chính do Lão Tử viết ra, mà đó là một tác phẩm gom góp của một số học giả cao niên viết ra, và Đạo gia lấy đó làm tôn chỉ của mình.
Lão Đam là một nhân vật truyền thuyết, do tưởng tưọng mà có, như thế mà cho Lão Tử là người khai tổ cho Chư Tử là một điều hết sức không hợp lý.

 6. Trang tử và những người trong phái đạo gia.

Dưới thời nhà Hán [25], hễ nói đến Đạo gia, là nhắm Hoàng Lão, duới thời Ngụy Tấn, nói đến Đạo gia là nhắc Lão, Trang. Trang Tử và Lão Tử được nhắc chung, là vì bắt đầu từ thời Ngụy Tấn [220-419] hai ông trở thành người cầm đầu cho môn phái thời đó.
Trong Sử ký, Trang Tử và Lão Tử được viết chung thành một truyện, Lão Đam là một nhân vật truyền thuyết, Lão Tử là tiếng gọi chung những học giả có tuổi, cho nên truyện Lão Tử không gì rõ ràng, xác thật cả, còn Trang Tử thì thật có người, nhưng sự tích thì tìm thấy trong các sách vở chẳng có bao nhiêu, còn trong quyển sách của ông thì 9 phần 10 là ngụ ngôn, và phần Ngoại thiên với Tạp thiên thì do người đời sau viết thêm vô, cho nên muốn tìm hiểu thân thế ông với ngày sanh, mất, thật là một điều rất khó khăn.
Sau đây xin chép lại tài liệu Trang Tử truyện trong pho Sử ký.
Trang Tử Truyện Khảo
Trang Tử là người đất Mông, ông tên Châu, thường làm quan ở Tất viên đất Mông.
[Trang Tử tên Châu, thấy trong các thiên : Tề vật luận, Ngoại vật, Thiên hạ, trong sách Trang Tử. Các học giả không có thuyết nào khác.
Về tự là gì thì không thấy chép trong các sách vở đời Tần.
Trong quyển Trang Tử của Thành huyền Anh có chép : Tự là Tử Hưu, không biết căn cứ vào đâu.
Sách Thích Văn tự lục viết : Thái sử công nói tự " Tử Hữu " nhưng trong Sử ký Bản truyện thì không bao giờ thấy tên tự ấy.
Sách Tập giải viết : theo Địa lý chí thì Mông huyện thuộc nước Lương, sách Chánh Nghĩa viết : Mông huyện là bổn ấp của Trang Châu.
Sách Quát địa chí viết : Cố thành tất viên ở Tào Châu, huyện Oan câu, cách phía Bắc 17 dặm.
Sách Thích văn tự lục viết : Trang Tử họ Trang tên Châu, người nước Lương ở Mông huyện, dưới thời Lục quốc làm Tất viên lại cho nước Lương.
Theo các tài liệu trên thì Trang Tử là người nước Lương.
Sách Sách Ẩn có dẫn sách Lưu Hướng biệt lục :
 
 


Hình 9 TRANG TỬ
Trích trong Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương của Giản Chi
và Nguyễn Hiến Lê, quyển thượng [trang 353].
[Theo Confucius et l'Humanisme Chinois của P. Đỗ Đinh].
Ông là người đất Mông, nước Tống, sách Hán chí cũng viết : " Tên Châu, người nước Tống�
Sách Lã thị Xuân Thu viết : Trang Tử tên Châu, người đất Mông, nước Tống. Theo các tài liệu trên thì Trang Tử là người nước Tống.
Đất Mông của nước Lương, hiện nay ở phía Bắc huyện Hà Trạch thuộc tỉnh Sơn Đông, còn đất Mông của nước Tống thì hiện nay ở vùng Đông Bắc huyện Thương Khâu tỉnh Hà Nam.
Hiện nay ở tỉnh An Huy, huyện Định Viễn, về phía Đông, cách 30 dặm cũng có Tất viên, là vì đời sau có kẻ háo sự, thích đem danh nhơn thời xưa dẫn về thành người của địa phương mình, rồi lại thêu dệt thêm để thành cổ tích.
Sách Hoàn vũ ký có viết : Tất viên thành, ở phía Bắc huyện Oan Câu, cách 50 dặm, phía Bắc thành có " Trang Tử điếu ngư đài ", tức là đất Mông của nước Lương, ngày nay ở phía Bắc huyện Hà Trạch.
Dưới thời Xuân Thu có Mông trạch, Nam cung Trường Vạn giết Mân Công ở đó, dưới thời nhà Hán, đặt là Mông huyện, đó là đất Mông của nước Tống, hiện nay ở phía Bắc huyện Thương Khâu.
Trong thành cũng có Tất viên.
Sách Tề tục huấn có viết : Huệ Tử đi, phía sau có xe trăm chiếc, qua Mạnh chư, Trang Tử nhìn thấy bỏ con cá...
Mạnh chư trạch thuộc nước Tống, hiện nay là huyện Thương Khâu.
Trong thiên Thu thủy của Trang Tử có viết : "Trang Tử câu cá ở Bộc thủy", Bộc thủy hiện nay là Bộc huyện ở phía Bắc huyện Hà Trạch...Hai chỗ ấy đều là những chỗ Trang Tử có đến đi câu.
Sách Nhứt thống chí có chép : Mộ Trang Tử ở Tất viên thành, phía Đông Bắc huyện Đông Minh, Đông Minh và Hà Trạch gần nhau, như thế thì Trang Tử về già qua đời ở đất Mông của nước Lương như thế thì có phải Trang Tử sanh trưởng ở Tống rồi sau đó qua ở nước Lương chăng ?
Ông đồng thời với Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương.
[Trang Tử bạn với Huệ Thi, mà Huệ Thi thường làm tướng quốc cho Lương Huệ Vương, cho nên Trang Tử cũng đồng thời với Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương, và như thế thì Trang Tử cũng đồng thời với Mạnh Tử, nhưng trong sách Mạnh Tử không hề đề cập đến Trang Tử, và trong sách Trang Tử cũng không hề đề cập đến Mạnh Tử. Mạnh Tử cũng thường đến các nước Lương, Tống, nhưng cũng không hề gặp Trang Tử, đó cũng là một điều khó hiểu.
Trong tài liệu Trang Tử niên biểu có chép ước lượng ông sanh vào năm Châu Liệt Vương thứ 7 [369 trước T.L.]. Mặc dầu những con số trên đây rất đáng tin cậy, nhưng không có bằng chứng gì xác đáng để dám quả quyết rằng đó là năm sanh và năm qua đời của Trang Tử, nhưng qua tài liệu kể trên, rõ ràng Trang Tử đồng thời với Mạnh Tử.
Trong quyển Trung quốc Triết học sử Phùng hữu Lan đã viết : "Mạnh Tử và Trang Tử đồng thời, hai người chưa từng biện bác với nhau lần nào, điều đó thật đáng nghi ngờ. Học thuyết của Trang Tử, là học thuyết của Dương Châu tiến thêm một bước, như thế thì đứng trên quan điểm của Mạnh Tử mà xét, thì Trang Tử cũng là phe phái của Dương Châu mà thôi.
Trang Tử cũng xem Mạnh Tử như là phe phái của Khổng Tử, Mạnh Tử chống Dương Châu, Mặc Địch là chống luôn chung cả phe Nho gia với Mặc gia cũng chê luôn cả những người trong phe phái, thế nên Mạnh Tử chỉ nhắc Dương Châu làm tiêu biểu, còn Trang Tử thì nhắc Khổng Tử, chớ chẳng phải Trang Tử và Mạnh Tử không hề biết nhau." Thuyết nầy thấy cũng hợp lý].
Cái học của ông chỗ nào cũng nhìn tới, nhưng chỗ trọng yếu căn bản là về với chủ trương của Lão Tử, thế nên ông viết sách hơn 10 vạn chữ, đại để là theo ngụ ngôn.
Ông viết các thiên : Ngư phủ, Đạo chích, Khư kíp, để chê nhóm của Khổng Tử, và làm sáng tỏ cái học thuật của Lão Tử, bọn Úy lũy Tử, Cang tang Tử đều là những bọn không ngôn, không sự thật.
Ông khéo viết, ý không bị lời ràng buộc, chỉ việc "gởi ý" dùng để phê phán Nho, Mặc, tuy là người túc học đương thời cũng không một ai biện bạch được.
Lời nói của ông rộng rãi bao la, chỉ tùy theo ý mình, vì thế cho nên các bậc vương công và đại nhân không thể bỏ được.
[Trong sách hán chí phần Đạo gia, có Trang Tử cho đến bây giờ vẫn còn.
Sách Sách Ẩn viết : Quyển sách ấy có 10 vạn lời, đa số đều dưới hình thức chủ, khách, đối đáp, thế nên mới nói là ngụ ngôn.
Ngụ là " ký thác " thế nên sách Biệt lục viết : " Bày ra tên, họ người để đối đáp ", đó là ký thác lời của mình cho người khác cho nên Trang Tử có thiên Ngụ ngôn.
Trong Thiên Ngụ ngôn có viết : "Ngụ ngôn có đến 9 phần 10", sách Sách Ẩn cũng viết : "Chữ Cang đọc là "canh", trong sách Trang Tử có thiên Canh tang Sở ".
Tư mã Bưu viết : Canh tang Sở là đệ tử của lão Tử ở phía Bắc núi Ũy lũy chi.
Canh tang Sở cũng chép là : Canh tang Tử cũng có khi chép là : Canh thương Tử. Gò Úy lũy cũng tức là Úy lũy sơn...tất cả nhơn danh, địa danh đều giả thiết, nhưng có nhiều khi cũng giả thác là cổ nhơn, như trong thiên Đạo chích, gọi Đạo Chích là em Liễu hạ Huệ, cho Đạo Chích biện luận với Khổng Tử.
Thật ra, Liễu hạ Huệ là người rất xa với thời vua Hi Công, không bao giờ gặp được Khổng Tử và Đạo Chích cũng không phải là em Liễu hạ Huệ]
Sở Uy Vương nghe tiếng Trang Châu hiền, liền sai sứ đem lễ vật trọng hậu đến rước, muốn để cho ông làm tướng quốc.
Trang Châu cười bảo Sở sứ :
- Ngàn vàng là lễ vật trọng hậu, khanh tướng là ngôi cao...Nhưng ngươi chẳng thấy con trâu tế ở giao miếu sao ?
Nuôi nó cho ăn mấy năm, bao bọc nó bằng gấm thêu, để đem vào thái miếu...Đến lúc đó, tuy muốn làm con heo mọn cũng không thể được nữa.
Ngươi nên đi ngay, đừng làm ô uế ta !
Ta thích đùa bỡn trong ô trọc để tìm thích thú, mà không muốn bị kẻ có nước kềm hãm, ta trọn đời không làm quan để thích cái ý của ta...
[Sách Chánh nghĩa viết : Sở Uy Vương nhằm vào năm Châu Hiển Vương năm thứ 30. Theo Lục quốc niên biểu thì năm đầu Sở Uy Vương nhằm năm thứ 30 Châu Hiển Vương.
Thiên Thu thủy trong sách Trang Tử có viết : Trang Tử câu ở Bộc thủy, vua Sở sai hai đại phu đến trước bảo :
- Muốn vì việc nước mà làm nhọc đến ông...
Trang Tử cầm cần câu mà chẳng chú ý :
- Ta nghe nước Sở có con thần qui, chết đã 3000 năm rồi, vua gói kỹ mà cất trên chốn triều đường. Con qui ấy vui lòng chịu chết để được gửi xương làm quí chăng ? Hay là nó muốn sống để kéo lê đuôi trên đường chăng ?
Đại phu nói :
- Thà là sống mà kéo lê đuôi trên đường...
Trang Tử nói :
- Vậy thì các ông về đi ! Ta sắp kéo lê đuôi trên đường đây !
    Đoạn nầy ý rấy giống đoạn viết trong bổn truyện, nhưng có phải là bổn truyện lấy ý trong sách Trang Tử chăng ?Bá Tiềm có viết : Đây là thuyết "Quí mình để bảo toàn sự sống" của Đạo gia.
    Trong thiên Thu thủy cũng có viết : Huệ Tử làm tướng quốc nước Lương, Trang Tử qua thăm...
    Có kẻ bảo Huệ Tử :
    - Trang Tử đến là muốn thay ông làm tướng quốc đó !
    Vì thế Huệ Tử lo sợ, liền chạy đi tìm trong nước suốt 3 ngày đêm.
    Trang Tử đến thăm ông và nói :
    - Phương Nam có con chim, nó tên là Uyên sô, người có biết nó không ?
    Con Uyên sô phát ra từ Nam hải mà bay đến Bắc hải, nếu không phải là cây Ngô đồng thì không đậu, nếu không phải là trái Giản thiệt thì không ăn, nếu không phải là nước Phong tuyền thì không uống, lúc đó con cú được con chuột thúi, con Uyên sô bay qua, ngửng đầu lên nhìn và nói :
    - Coi chừng...
    Bây giờ ngươi muốn dùng nước Lương của ngươi để dọa ta sao ?
Đây cũng có thể là một bài ngụ ngôn ghi là Huệ Tử, nhưng Trang Tử đã xem chức tướng quốc như là con chuột thúi, mà Sở Uy Vương muốn mời làm tướng quốc, đâu có lẽ nào Trang Tử thích con chuột chết sao ?
*
Trong môn phái Đạo gia, ngoài Lão Tử và Trang Tử, còn rất nhiều người, sau đây xin chọn một vài nhân vật tiêu biểu nhứt.
Những người khác trong phái Đạo gia
1. Liệt Tử
Phái Đạo gia thường ghép chung Trang Tử và Liệt Tử.
Liệt Tử không có truyện trong sách Sử ký, trong Hán chí, phần Đạo gia có ghi Liệt Tử...và chép như sau :
"Liệt Tử tên Ngự Khấu, người thời trước Trang Tử, Trang Tử rất tôn..."
Trang Tử thường tôn Liệt Tử và gọi là Ngự Khấu. Chữ Ngữ và Ngự thời xưa dùng giống nhau.
Lưu Hướng, trong sách Liệt Tử tự lục viết : "Liệt Tử là người nước Trịnh, đồng thời với Trịnh mục Công.
Thiên Nhượng vương trong Trang Tử có viết : Liệt Tử từ bổng lộc của Trịnh tử Dương. Trịnh tử Dương và Trịnh mục Công niên đại cách nhau rất xa, cho nên Liễu tôn Ngươn trong bài Liệt Tử hiệu đã viết : "Trịnh mục Công tức là Lỗ mục Công..." mới đúng.
Trong Sử ký, có chép Trịnh mục Công giết tướng quốc là Tử Dương, đúng vào năm thứ 12 Lỗ mục Công.
Trong sách "Khảo cổ chất nghi" Diệp đại Khánh đã viết : Liệt Tử là người nước Trịnh, không nên ghi năm cùng với vua Lỗ, nghi chữ Mục với chữ Nho giống nhau nên lầm. Nên viết là "Cùng với Trịnh Nho Công đồng thời là đúng hơn v.v..." còn rất nhiều thuyết khác nhau về niên đại của Liệt Tử, nhưng không có một thuyết nào xác đáng, đáng tin cả, đành phải chịu "khuyết nghi".
Sách Trang Tử nói về Liệt Tử như "Cỡi gió mà đi..." đều là những lời hoang đường, cho nên Cao tợ Tôn trong sách Vĩ lược cho rằng Liệt Tử là một nhân vật giả tưởng không có thật.
Thái Sử Công không viết truyện Liệt Tử, biết đâu cũng là lý do ấy.
Trang Tử trong thiên "Ứng đế vương" viết : "Liệt Tử 3 năm không đi ra ngoài, v.v..."như thế thì Liệt Tử quả là người có thật, nhưng đó là một ẩn sĩ, tị thế, không muốn có danh...Sách Liệt Tử có lẽ cũng do phái Đạo gia thời Chiến quốc gom góp lại mà thành, sau khi được Lưu Hướng hiệu đính, quyển sách truyền đến ngày nay, bị thất lạc nhiều chỗ, được vá víu lại, tự nhiên là có nhiều đoạn không đúng, sai hẵn với nguyên bản cũ.
2. Quan Doãn Tử.
Trong thiên Thiên hạ, Trang Tử có viết tên Lão Đam và Quan doãn chung nhau. Sách Hán chí, phần Đạo gia có chép Quan doãn Tử : "Tên Hỉ, làm quan giữ cửa ải, Lão Tử qua cửa ải, Hỉ bỏ chức quan mà đi theo", trong sách Sử ký thì không có truyện Quan doãn Tử.
"Lão Tử ...ở nhà Châu lâu...thấy nhà Châu suy liền ra đi, đến cửa ải, Quan doãn là Hỉ nói : "Thầy sắp sửa đi ở ẩn chăng ? Hãy cố gắng vì tôi mà viết sách"...
Lão Tử liền viết sách gồm hai thiên trên, dưới, nói cái ý Đạo đức, được hơn 5000 chữ, nhưng trong Sử ký chỉ viết : Lão Tử qua cửa ải rồi đi, mà không thấy chép Quan doãn bỏ chức đi theo...chỉ có nói Lão Tử vì Quan doãn mà viết sách, chớ không hề nói Quan doãn tự viết.
Quan doãn thấy Lão Tử đến mà mừng, chớ không phải là tên Hỉ, có người đọc Sử ký lầm ngỡ rằng "Hỉ" là tên Quan doãn.
Trương Trạm trong quyển Liệt Tử lại chép rằng ông tự là "Công Độ" có lẽ là ước đoán mà thôi.
Lão Tử qua cửa ải, sách Sử ký chưa hề chép cửa ải ấy tên gì, cũng có thể đó là Tán quan, Ngọc môn quan, rồi Lão Tử lại đi về phía Tây đến Lưu sa hà [sa mạc] hoá ra người Hồ...và thành tiên...như thế thì Quan doãn theo Lão Tử, chắc cũng thành tiên luôn...Các truyện như Liệt tiên truyện đều ghi như thế...nhưng ai đọc qua cũng đều nhận thấy đó là chuyện hoang đường, không đáng tin.
Sách Sử ký chép chuyện Lão Tử qua cửa ải viết sách, đã là chuyện không đáng tin, nhơn đó biết đâu người ta lại bày vẽ thêm chuyện Quan doãn Tử viết sách, điều nầy cũng thật đáng nghi ngờ.
Thế nên, trong Trang Tử, người ta nghĩ rằng, Quan doãn chỉ là một nhân vật truyền thuyết, hay giả thuyết mà thôi.
3. Văn Tử.
Thiên Tự nhiên trong sách Luận hoành của Vương Sung có viết :" Nếu Khổng Tử làm vua, Nhan Uyên làm tôi, còn chẳng có thể khiến cáo gì, còn nếu để Lão Tử làm vua, Văn Tử làm tôi thì còn gì hơn ! Vì Lão Tử và Văn Tử đều giống như Thiên Tử v.v...
Trong tài liệu nầy Vương Sung đã chép chung Lão tử với Văn Tử.
Tên Văn Tử thỉnh thoảng thấy có chép trong sách vở, nhưng người gốc ở đâu, tuổi tác như thế nào thì không thấy ghi rõ...Hơn nữa ông không có viết một quyển sách nào, cũng không thấy có một lời nói nào ghi trong sách vở, như thế đáng nghi là một nhân vật không có thật.
4. Dương Châu.
Thiên Đằng Văn Công trong sách Mạnh Tử có viết :" Lời nói của Dương Châu và Mặc Địch đầy trong thiên hạ...mà lời nói trong thiên hạ nếu không về hướng Dương thì cũng về hướng Mặc...
Lời nói của Dương, Mặc không ngừng, thì đạo của Khổng Tử không sáng tỏ được". Dường như dưới thời Mạnh Tử, cái học của Dương Châu có thế lực tam phân thiên hạ với Nho, Mặc...
Trong sách Trang Tử cũng thường nhắc chung Dương và Mặc, trong thiên Biền mẫu gọi Dương và Mặc "sóng đôi mà biện luận".
Thiên "Khư kíp" cũng có viết "Kìm miệng của Dương Châu"... trong một thiên khác thì sắp chung : Nho, Mặc, Dương, Bỉnh...Bỉnh tức là Công tôn Long, như thế thì Dương Châu cũng là một biện sĩ.
Mặc dù Dương Châu không có trước tác lưu truyền, nhưng rõ ràng trong giới học thuật đương thời, ông cũng đã từng hiển hách.
Một học giả người Nhựt, ông Cửu bảo Thiên Tùy gọi Dương Châu và Trang Châu âm gần nhau, và Dương Châu tức là Trang Châu.
Gần đây Thái nguyên Bồi phụ họa theo, nhưng đó cũng chỉ là một ức đoán, không có gì làm bằng chứng.
Trong sách Trang Tử ở các thiên : Ứng đế Vương, Ngoại vật đều có nhắc chuyện Dương Tử ra mắt Lão Đam, dưới có lời chú Tử Cư là tự của Dương Châu, nhưng trong sách Liệt Tử, thiên Dương Châu, lại chép chuyện Dương Châu vấn đáp với Cầm hoạt Ly, mà Cầm hoạt Ly rõ ràng là đệ tử của Mặc Tử.
Trong thiên ấy cũng có chép : Dương Châu ra mắt vua nước Lương mà vua nước Lương xưng Vương là sau năm đầu của Huệ Vương, lúc đó thì Dương Châu đâu còn có dịp để gặp Lương Vương được ?
Thường thường sách Trang Tử và Liệt Tử hay dùng lối ngụ ngôn, người đời sau lại hay thêm bớt vào, vì thế không thể lấy đó làm khảo chứng được.
Tài liệu chép Dương Châu trước gặp Lão Đam rồi sau gặp Cầm hoạt Ly, đó chỉ là lối ngụ ngôn của Trang Tử và Liệt Tử, cũng y như trong sách Trang Tử nói Khổng Tử gặp Liễu hạ Huệ, và Trang Tử gặp Lỗ Ai Công vậy.
Dương Châu nhứt định không phải là Trang Châu, trong sách Dương Tử khảo biện có chứng minh điều đó rất rõ ràng, và sách ấy cũng nghi Dương Châu và Dương tử Cư là hai người.
Dương Châu là người nước nào ?
Có nhiều thuyết khác nhau, Thành huyền Anh cho rằng : Dương là họ Dương, tên Châu, tự Tử Cư, người nước Tống, trong Sơn Mộc thiên thì lại viết là người nước Tần...cùng đồng trong một quyển sách [Trang Tử của Thành huyền Anh] mà trên dưới lại khác nhau.
Gần đây Trịnh Tân Vu trích lời trong sách Tuân Tử có viết : Dương Châu thấy đường nhiều ngã mà khóc. Con đường nhiều ngã viết là "cù lộ" đó là chữ dùng của nhà Tần, vì thế Trịnh tân Vu cho rằng Dương Châu là người nước Tần, nhưng đó là lời của Tuân Tử viết, không phải chính do Dương Châu viết...như thế không thể quả quyết ông là người nước Tần được, mà chính Tuân Tử cũng là người nước Triệu, đâu phải là người Tần.
Trong sách Lã thị Xuân Thu cũng có viết : "Cho nên Mặc Tử nhìn thấy con đường nhiều ngã mà khóc".
Khóc trước ngã ba, ngã tư đường, là một hình ảnh được nhiều người dùng đến, cho nên người ta đã nói đến hoặc Dương Tử hay hoặc là Mặc Tử.
Gần đây, Tạ vô Lượng trong quyển Trung Quốc Triết Học Sử lại chép Dương Châu là người nước Vệ, là vì thiên Ngụ ngôn trong Trang Tử có viết "Dương Tử đi về phía Nam đến đất Bái", nước Vệ ở phía Bắc đất Bái, cho nên mơí suy đoán Dương Châu là người nước Vệ.
Thật ra, về thân thế của Dương Châu, cho đến bây giờ chưa tìm thấy tài liệu nào xác đáng, để có thể quả quyết được, nhưng có chỗ đáng tin, là ông sanh ra trước thời Mạnh Tử, sở trường về biện thuyết, nổi tiếng một thời nhưng vì không có đệ tử, không viết sách, cho nên sau nầy không còn để lại một dấu vết gì cả.
Trong sách Hán chí, không thấy đề cập đến Dương Châu, chỉ trong sách Liệt Tử có thiên Dương Châu, có lẽ do người đời sau viết thêm.
Gần đây, ông Phùng hữu Lan cũng cho rằng thuyết của Trang Tử, chỉ là thuyết của Dương Châu tiến thêm một bước mà thôi, và danh của Dương Châu không nổi lên được là bị Trang Tử che mất.
Mạnh Tử đã viết "Dương thị vị ngã, như thế là vô quân"...Lã thị Xuân Thu cũng viết : "Dương Châu quí kỷ", quí kỷ tức là vị ngã, vì thế vô quân [không chịu ra làm quan], như thế thì Dương Châu cũng là một kẻ sĩ lánh đời, thà "lê đuôi trên đường, chớ không thèm làm vật hy sinh cho người khác".
5. Công Tử Mâu.
Sách Hán chí viết : "Là công tử nước Ngụy, sanh trước Trang Tử, Trang Tử rất kính".
Sách Tuân Tử thường ghép chung Ngụy Mâu với Đà Hào, Ngụy Mâu tức là Ngụy công tử Mâu. Trong Chiến quốc sách viết là Công tử Ngụy Mâu.
Trang Tử trong thiên Nhượng Vương có viết : "Ngụy Mâu là công tử có vạn cổ xe, ông ẩân trong hóc núi, kẻ sĩ áo vải cũng khó làm được như ông, như thế thì Ngụy Mâu là một công tử giàu sang mà đi ở ẩn".
Tôn di Nhượng lại cho rằng Ngụy Mâu tức là Mạc Tử, căn cứ theo câu "Tử Mạc chấp trung" ông cho rằng, Mâu là chuyển âm của Mạc, Tử Mạc cũng tức là Tử Mâu...
Chứng cớ như thế không có gì là vững chắc cả.
Trong Hàn thi ngoại truyện chép là Phạm Ngụy Mâu; Lương ngọc Thằng và Vương tiên Khiêm cũng chép y như thế, nhưng thật ra trong Hàn thi ngoại truyện chép rõ là Phạm Thư, Ngụy Mâu, nhưng có người lầm lẫn nên bỏ sót mất một chữ Thư...

Hình 10. DƯƠNG HÙNG
Trích trongTrung Quốc Văn Học Sử của Trịnh Chấn Đạc [quyển 1]
Trong các sách Trang Tử, Lã thị Xuân Thu, Hoài Nam đạo ứng huấn và Liệt Tử đều chép là Trung sơn Công tử Mâu.
Tư mã Bưu, trong sách Trang Tử chú viết : "Công Tử nước Ngụy được phong cho đất Trung sơn, tên Mâu".
Cao Dụ, trong pho Lã thị Xuân Thu chú có viết : "Nước Ngụy được đất Trung sơn, liền lập ấp phong cho công tử Mâu", vì thế mới gọi là Trung sơn công tử Mâu...
Trương Trạm, trong sách Liệt Tử truyện có viết : "Công tử Mâu là con Văn hầu...Nuớc Ngụy được đất Trung sơn, lập ấp phong cho Tử Mâu, vì thế gọi là Trung sơn công tử Mâu, như thế Ngụy Mâu tức là Trung sơn công tử Mâu.
Thiên Nhượng vương, sách Trang Tử có chép việc Công tử Mâu vấn đáp với Thiềm Tử, trong Lã thị Xuân Thu và Hoài nam Tử cũng có chép việc đó.
Trong sách Sử ký, phần Ngụy thế gia, có chép vào năm 17 đời Ngụy Văn hầu, đánh Trung sơn, khiến Tử Kích ở giữ, đến năm 25, Địch Hoàng bảo Lý Khắc : "Bây giờ muốn lấy luôn Trung sơn, tôi tiến cử Nhạc Dương...Đã lấy xong rồi, thì không nên để cho y giữ, tôi sẽ tiến cử ông".
Như thế thì, sau khi đánh Trung sơn, người giữ đất ấy là Tử Kích rồi sau đó là Lý Khắc, chớ không có việc phong cho công tử Mâu.
Hơn nữa, dưới thời Ngụy Huệ vương, Trung sơn quân làm tướng nước Ngụy. Sách Sách Ẩn có viết : "Ngụy văn Hầu diệt Trung sơn tìm cách phục quốc...rồi không bao lâu lại bị Triệu diệt..."
Như thế thì sau khi bị chiếm giữ, Trung sơn lại phục quốc được, công tử Mâu đâu có được phong đất ấy.
Sách Thuyết Uyển có viết : "Ngụy công tử Mâu đi về phía Đông, Nhượng hầu đưa tiễn v.v...
Sách Chiến quốc sách có chép : "Kiến Thân quân được quí ở nước Triệu, công tử Mâu qua Triệu, Triệu Vương đón rước v.v..."
Theo Chiến quốc sách, thì Kiến Thân quân làm tướng quốc dưới thời Triệu Hiếu Thành Vương. Hiếu Thành Vương nguyên niên nhằm năm thứ 42 đời Tần Chiêu Vương, năm ấy Tần Tuyên Thái hậu mất, Nhượng hầu ra đất Đào...
Ngụy văn hầu nguyên niên nhằm năm 415 trước T.L., còn năm thứ 24 thời Tần Chiêu Vương thì nhằm năm 265 trước T.L., cách nhau 50 năm, như Ngụy Mâu là con Văn hầu, được phong ở Trung sơn, mà còn sống đến đời Triệu Hiến Thành Vương và Tần Chiêu Vương thì ông phải sống lâu đến lối 150 năm...
Trong sách Trang Tử, thiên Thu thủy có chép : Công tôn Long hỏi Ngụy Mâu :
- Long lúc còn nhỏ, học đạo của tiên sinh, lớn lên mà biết rõ cái hạnh nhơn nghĩa, hợp được những điều giống và khác nhau, xa được gươm dáo, làm cho thuận cái không thuận, làm được điều không làm được, làm rối trí Bách gia, làm cùn lời biện bác của đám đông, tôi nghĩ như thế là đã đạt được nhiều lắm rồi.
Công tôn Long học với Ngụy Mâu, điều đó chưa dám tin là thật, nhưng Ngụy Mâu chắc chắn cũng là một tay biện sĩ.
Thiên Phi thập nhị tử có chê Đà Hào, Ngụy Mâu :
- "Buông lung tánh tình, không kiêng nể ai, có hạnh như cầm thú...".
Liệt Tử, trong Dương châu thiên cũng cho là "Túng dục chủ nghĩa". Ngụy Mâu, Dương Châu, đều là những ẩn sĩ, lại giỏi về biện thuyết, đâu có lẽ lại theo "chủ nghĩa túng dục" ?
Sách Hán chí có chép : Ngụy Mâu là người trước thời Trang Tử, mà Trang Tử lại sùng bái, những lời ghi trong sách Hán chí rất đáng tin, còn những câu trong sách Trang Tử thì cần phải xét lại, vì trong sách ấy có rất nhiều đoạn do người đời sau viết thêm vào...
6. Trần Trọng Tử.
Sách Mạnh Tử chép Trần Trọng Tử là một thế gia của nước Tề. Anh ông là Đái Cái ăn lộc vạn chung, Trọng Tử cho là bất nghĩa nên tránh anh, lìa mẹ, đến ở đất Ô Lăng, 3 ngày không ăn, tai không nghe, mắt không thấy, trên giếng có cây lý, trái bị kiến ăn hơn phân nửa, mới rán bò lại lượm ăn, nuốt 3 miếng mà tai mới nghe, mắt mới thấy. Ông sống bằng tự túc tự cấp, lo trồng lúa, dệt vải để được ấm no [xem thiên Đằng văn Công trong Mạnh Tử].
Như thế thì Trần Trọng Tử không thích giàu sang mà chỉ muốn ở ẩn, giống như Ngụy Mâu, mà cách sống lại siêng năng chịu khó nhọc còn hơn Ngụy Mâu.
Sách Tuân Tử thì sắp Trần Trọng Tử ngang hàng với Sử Du, và chê là : Tánh tình tàn nhẫn, lo cho cái lợi của mình, và xem mình là cao hơn mọi người.
Sách Hoài Nam Tử lại viết : Trần Trọng Tử là người có khí tiết, không chịu vào triều đình của vua ô nhục, không hưởng lợi lộc của đời loạn, vì thế mà chịu đói".
Trần Trọng Tử đã ở ẩn, không chịu ra làm quan, đó là sự thật, nhưng lại nói vì thế mà ông bị chết đói, chắc có lẽ đó là lời ước đoán không đúng với sự thật.
Trong Chiến quốc sách, có chép chuyện Triệu Uy hầu hỏi sứ nước Tề :
Ô Lăng Trọng Tử còn không ? Con người ấy, trên chẳng thờ vua, dưới thì không lo việc gia đình, giữa thì không giao thiệp với Chư hầu, đó là dẫn dắt dân chúng đi tới chỗ vô dụng, tại sao cho đến bây giờ vẫn chưa giết y cho rồi ?
Như thế thì Trần Trọng Tử quả là một kẻ sĩ lánh đời...Trọng Tử có anh, vì chữ "Trọng" là em đứng sau chữ "Bá Trọng" không gọi tên ông và chỉ viết là Trần Trọng hay là Điền Trọng, là vì ông muốn giấu tên mình.
Chương Trâu Dương truyện trong sách Sử ký có viết : Ô Lăng Trọng Tử từ chức Tam công, để đi tưới vườn cho người...như thế thì Trọng Tử đã từ phú quí đi làm mà sống.
Trong sách Liệt nữ truyện của Lưu Hướng, có chép chuyện vợ của Ô Lăng, Tử Chung, có ghi vua Sở sai sứ đến rước Tử Chung làm tướng, vợ ông khuyên đừng đến, rồi hai vợ chồng trốn đi tìm chỗ tưới vườn cho người để sống, v.v...
Chuyện nầy chắc do chuyện Trâu Dương viết ra rồi bày vẽ thêm, chữ Chung và chữ Trọng âm gần nhau vì thế Tử Trọng biến thành Tử Chung.
Việc vua Sở sai sứ đến rước chỉ là chuyện ức đoán. Sách Cao Sử truyện của Hoàng phủ Bật có chép : "Người nước Tề, Trần Trọng Tử qua nước Sở, ở Ô Lăng, tự gọi mình là Ô Lăng Trọng Tử", như thế thì cho đất Ô lăng là của nước Sở.
Sách Dư địa chí của Cố dã Vương có viết : "Nước Tề có Trường bạch Sơn, đó là chỗ của vợ chồng Trần Trọng Tử ở ẩn...
Trường bạch Sơn hiện nay ở huyện Chương Khâu, tỉnh Sơn Đông tức là chỗ nước Tề ngày xưa. Ô Lăng cũng là đất của nước Tề, cho nên Trần Trọng Tử hễ có dịp là về thăm mẹ.
Mạnh Tử chê Trần Trọng có câu : "Con người không có gì tệ hơn là không thân thích, không nghĩa vua tôi, trên dưới".
Trần Trọng xa anh, lìa mẹ, cho nên mới nói : "Không thân thích", và ẩn cư không đi làm quan, cho nên mới nói : "Không nghĩa vua tôi".
Triệu Uy hầu bỉnh chánh vào năm đầu Hiếu Thành Vương, và mất vào năm thứ 3 cũng đời Hiếu Thành Vương, như thế thì Trọng Tử còn sống vào lúc năm đầu của thời Hiếu Thành Vương, mà đến thời Mạnh Tử ông vẫn còn, như thế thì Trọng Tử cũng có tuổi thọ khá cao.
7. Hứa Hành.
Sách Mạnh Tử, trong thiên Đằng văn Công, có chép Hứa Hành là từ nước Sở đến nước Đằng, Mạnh Tử chê là người rợ phương Nam, tiếng nói líu lo, như thế thì Hứa Hành là người nước Sở.
Sách Mạnh Tử cũng có viết :
Bọn ông ấy mấy mươi người đều mặc áo trần, bện dép, dệt chiếu kiếm ăn.
Như thế thì Hứa Hành cũng như Trần Trọng, tự mình ra sức làm để sống.
Trần Tương theo thuyết Hứa Hành chủ trương "Quân dân cùng cày để có ăn" và cho rằng "Vua có kho đụng dẫy đầy là làm khổ dân để cho mình được sung sướng".
Hứa Hành muốn bỏ giai cấp thống trị với giai từng bị trị để cho mọi người được bình đẳng. Sách Hán chí không thấy chép sách của Hứa Hành, và tên của ông cũng không thấy chép ở các sách khác, có lẽ vì ông là người ẩn sĩ, muốn lánh đời và không muốn cho ai nhắc đến mình.
  • Các ẩn sĩ có chép trong sách Luận Ngữ.
  • Những kẻ ẩn sĩ, lánh đời, không muốn ai biết đến mình, đó là chủ trương về cuộc sống của phái Đạo gia. Những kẻ sĩ lánh đời ấy, có đa số không một ai biết tên họ những người ấy là gì, trong sách Luận Ngữ, chép những người như thế cũng khá nhiều.
    Thiên Hiến vấn có chép : "Tử Lộ ngủ đêm ở Thạch môn. Có người làm ruộng hỏi :
    - Ông từ đâu đến ?
    Tử Lộ đáp :
    - Tôi là người của Khổng Tử.
    Người ấy nói :
    - Có phải đó là người biết làm không được mà vẫn cứ làm không ?"
      Chỗ khác lại chép : "Phu Tử đánh cái khánh ở nước Vệ, có người vác giỏ đi ngang qua cửa, nói :-Người đánh khánh, thật là có lòng...
      Rồi lại nói :
    - Thật là tầm thường, đánh khánh mà làm gì ? Không ai biết mình thì thôi vậy". Trong thiên Vi tử lại chép : "Người cuồng nước Sở đi về phía chiếc xe, hát mà lướt ngang Khổng Tử, hát rằng :
    - Phượng ơi ! Phượng ơi ! Tại sao đến mà buồn vậy ? Chuyện đã qua mà khôntg thể làm gì được, chuyện sắp đến đâu có thể dự liệu được...thôi đi...thôi..."
    Chỗ khác lại viết : "Trường Thư, Kiệt Nịch bừa và cày, Khổng Tử đi ngang, sai Tử Lộ đến hỏi đường.
    Trường Thư hỏi :
    - Ai ngồi trên xe đó ?
    Tử Lộ đáp :
    - Đó là Khổng Khâu.
    -Ạ...Có phải là Khổng Khâu nước Lỗ không ?
    Đáp :
      - Phải...- Như thế thì người ấy phải biết đường...
    Tử Lộ lại hỏi Kiệt Nịch ; Kiệt Nịch hỏi :
    -Người là ai ?
    - Dạ, tôi là Trọng Do.
    -Có phải là người đi theo Khổng Khâu nước Lỗ không ?
    - Dạ phải.
    Người ấy tiếp :
    - Từng từng, lớp lớp, trong thiên hạ cũng đều như thế cả...nhưng ai có thể thay đổi được ? Đi theo kẻ lánh người...thà là đi theo kẻ lánh đời còn hơn ! Rồi cứ cày tiếp mà không nói gì thêm".
    Chỗ khác lại chép : "Tử Lộ đi lạc phía sau, có người chống gậy, vác cái bừa.
    Tử Lộ hỏi :
    - Ông có thấy Phu Tử không ?
    Người ấy đáp :
    - Tay chân không siêng năng, 5 giống lúa không phân biệt, vậy mà làm Phu Tử ai ?
    Rồi cắm cây gậy mà bừa..."
    Các câu : Từng từng, lớp lớp trong thiên hạ đều như thế... mà ai có thể thay đổi được ? Thôi đi...thôi đi ! Bây giờ những kẻ theo việc chánh đã trễ rồi...". Những câu ấy có thể nói là vì cảm khái mà thổ lộ ra...đó là ý nghĩ của những kẻ ẩn sĩ, không ai biết mình thì thôi...
    Nếu biết là không thể làm được, thì không làm, nếu biết là không thể thay đổi đuợc thì cũng không thèm cố gắng để thay đổi làm gì...ta chỉ ra sức làm để tìm lấy cái sống mà thôi.
    Không ai biết ta, thì thôi vậy, y như lời nói của Gia Cát Lượng "Chẳng cần đạt để nổi tiếng" và tiến thêm một bước nữa là "Muốn cho mình không đạt...không nổi tiếng".
    Muốn cho mình không đạt...không nổi tiếng, tức là muốn ở ẩn, và không có danh tiếng...Thế nên kẻ sĩ lánh đời đều giấu tên họ mình, như những người trong sách Luận Ngữ đã chép : Người làm ruộng, người vác giỏ, kẻ cuồng nước Sở, Trường Thư, Kiệt Nịch, người chống gậy v.v... những người ấy, không một ai biết tên họ là gì cả.
    Trong sách Hán chí có ghi những tên người như Lão lai Tử, Hạc quan Tử v.v...đều cũng giống như trường hợp trên, những người ấy là ẩn sĩ không ai biết tên họ thật là gì.
    *
    Những người ẩn sĩ, trong sách Luận Ngữ chỉ ghi chép lại một đôi lời ngắn ngủi, vì những người ấy chỉ muốn lánh đời, họ không thích bất câu người nào nhắc đến họ hay là tuyên truyền mở rộng thuyết lánh đời của họ.
    Dương Châu thì lại khác, ông muốn cho mọi người biết chủ trương : "Vị ngã, qui kỷ" của mình, và đó cũng là một khía cạnh khác của thuyết lánh đời, chỉ biết lo riêng cho mình mà thôi.
    Ông ẩn cư mà lại có danh, vì muốn cho mọi người biết cái thuyết của mình. Mặc dù phổ biến học thuyết, nhưng ông không bao giờ muốn đem học thuyết ấy để dạy ai, và cũng không hề viết sách.
    Về phần Trang Châu, ông lại tiến thêm một bước nữa, là hệ thống hoá được chủ trương, học thuyết của mình, người đời sau lại gom góp, thu thập viết thêm vào mà thành pho Trang Tử.
    Những kẻ sĩ lánh đời ấy, đối với hiện tình chánh trị đương thời rất bất mãn, thế nên họ ao ước được trở lại cái hoàn cảnh xã hội nguyên thủy của thời thái cổ, lúc đó con người sống như vô chánh trị mà còn được yên ổn hơn, ai ai cũng được sống thơ thới trong hoàn cảnh tự nhiên, tự do sanh sống tùy theo ý thích mình.
    Trong sách Trang Tử, lập luận như trên rất nhiều, cho nên Hứa Hành chủ trương vua tôi cùng đi cày, thật là đúng với lý thuyết của Đạo gia, và nghịch hẳn lại với học thuyết của Nho gia, cho nên Mạnh Tử mới bài bác là "Vị ngã, không có đạo quân thần".
    Mạnh Tử cũng chê Trần Trọng Tử là : " Không thân thích, không quân thần thượng hạ ", cũng y như Tử Lộ đã chê người vác bừa là : "Không làm quan là bất nghĩa", và nếu bỏ cái đạo quân thần thì " Muốn cho mình trong sạch, lại thành ra làm loạn mất cái đạo nghĩa lớn ".
    Những kẻ lánh đời, muốn cho mình được trong sạch, không muốn để cho thân mình bị nhiễm vào cuộc đời ô trược, thế nên họ nhìn thấy cái giàu sang của vua chúa đương thời là điều ô uế...
    Họ nhận hành động của Khổng Tử " Biết không làm được mà cứ làm ", " Biết không thể thay đổi được mà cứ cố gắng thay đổi ", đó là điều vụng về, tối tăm.
    Từ việc quí trọng mình, xem thường tất cả mọi việc xung quanh trong xã hội, số ẩn sĩ ấy lại đi thêm một bước nữa, cho đến thuyết : " Dù cho nhổ một sợi lông để làm lợi cho thiên hạ ", họ cũng không chịu làm, vì thế cho nên từ những kẻ ẩn sĩ đã ghi trong pho Luận Ngữ, tiến thêm một bước nữa là đến Dương Châu, và phát triển thêm là đến Trang Châu, đó là cái đà tất nhiên phải đến của phái ấy.




     


    Khổng Tử là ai?


    Khổng Tử (chữ Hán: 孔子; còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子; 27 tháng 8 âm, 551 –11 tháng 4 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà chính trị nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống và tư tưởng của các dân tộc Đông Á. Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời). Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế giới, đã cho thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới.

    Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", sự chính xác của các mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được một người Italia là Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Khổng giáo còn được xem là một tôn giáo lớn của loài người, nhất là dân tộc Trung Hoa.

    Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ Kinh).
    Một tác phẩm hội họa về Khổng Tử, của họa sĩ Ngô Đạo Tử (680–740) thời kỳ Nhà Đường.
    Một tác phẩm hội họa về Khổng Tử, của họa sĩ Ngô Đạo Tử (680–740) thời kỳ Nhà Đường.

    Tiểu sử
    Khổng Tử tên là Khổng Khâu (孔丘), tự hiệu là Trọng Ni (仲尼), sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông.

    Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Ông từng nói "... Lúc nhỏ bị nghèo hèn, ta phải làm nhiều nghề nên biết được nhiều việc nhỏ mọn. Người quân tử cần biết nhiều như vậy không? Không cần biết nhiều nghề như vậy.". Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử 孔夫子, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử 孔子. 'Tử' ngoài ý nghĩa là 'con' ra còn có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử 孔子 là Thầy Khổng.

    Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và gặt lúa. Sau đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật dùng trong việc tế tự. Năm 25 tuổi thì ông chịu tang mẹ. Năm 29 tuổi, ông học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ.

    Năm 30 tuổi, Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô nhà Chu, để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, nhưng vì nhà nghèo, không đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thôi. Học trò là Nam Cung Quát nghe vậy, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền ban cho ông một cỗ xe song mã và vài quân hầu cận để đưa Khổng Tử và Nam Cung Quát đi Lạc Dương. Đến nơi, Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ. Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì ông đến quan sát và hỏi han cho tường tận.

    Khổng Tử ở Lạc Dương khảo sát các việc xong thì trở về nước Lỗ. Từ đó, sự học của ông càng rộng hơn nhiều nên học trò xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng ông vào việc nước.

    Được mấy năm, trong nước Lỗ, Quý Bình Tử khởi loạn. Ông theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Tề Cảnh Công mời ông tới để hỏi việc chính trị và rất khâm phục, muốn đem đất Ni Khê phong cho ông, nhưng quan Tướng quốc nước Tề là Yến Anh ngăn cản không cho.

    Năm sau, ông trở về nước Lỗ lo việc dạy học, và nghiên cứu cho tường tận Đạo học của Thánh hiền. Lúc đó ông được 36 tuổi.

    Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong thuyết phục các vua chư Hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để đem lại thái bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của ông là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các quan Đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông. Ông từng cảm thán "Ai mà không phải đi qua cửa rồi mới rời khỏi nhà ? Vậy mà tại sao không có ai đi theo đạo này ?". Khi bị vây ở đất Khuông, Khổng Tử nói "Sau khi vua Văn Vương mất, tất cả mọi văn hóa, lễ nhạc đều không phải ở nơi ta cả ư ? Nếu trời muốn cho nền văn hóa này mất đi, thì sao khi vua Văn Vương chết, lại ủy thác cho ta nắm giữ nền văn hóa này làm gì ? Còn nếu trời đã không muốn để mất nền văn hóa này, thì người Khuông kia làm gì được ta ?". Sau 14 năm đi chu du các nước không thành công, ông trở về nước Lỗ, có quan Đại Phu Quý Khang tử sai Công Hoa ra đón ông. Phu nhân của Khổng Tử là bà Thượng Quan đã mất trước đó một năm. Các học trò của ông nói về giai đoạn ông đi các nước truyền bá đạo học:

    Tử Cầm hỏi Tử Cống rằng "Thầy Khổng Tử của chúng ta mỗi khi đến một nước nào đều được tham dự vào công việc chính sự của nước đó. Đây là do thầy chúng ta yêu cầu hay do người ta chủ động mời thầy ?"

    Tử Cống nói: "Thầy chúng ta có đức tính ôn, lương, cung, kiệm, nhường, nên mới được vinh dự đặc biệt đó. Phương pháp đề xuất yêu cầu được tham gia chính sự của thầy chúng ta hoàn toàn khác với phương pháp xin việc của người khác."(Luận ngữ)

    Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định công, ông được 51 tuổi, được vua Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở Ấp Trung Đô, tức là đất Kinh thành. Một năm sau, bốn phương lấy chính sự của ông làm khuôn mẫu. Năm Lỗ Định Công thứ 10 (500 TCN), ông phò vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Công ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ ba khoảnh đất ở Quy Âm mà Tề đã chiếm của Lỗ từ mấy năm trước.

    Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi thăng lên Đại Tư Khấu (Hình Bộ Thượng Thư) coi việc hình án. Ông đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn lộn, gian phi trộm cắp không còn nữa, xã hội được an bình thịnh trị. Sau 4 năm, Lỗ Định Công phong ông lên làm Nhiếp Tướng Sự (Tướng Quốc), coi việc Chính trị trong nước. Ông cầm quyền được 7 ngày thì tâu với vua Lỗ xin giết gian thần Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc chính. Ông chỉnh đốn kỷ cương trong nước, dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nên dân không còn nhiễu loạn mà chánh trị mỗi ngày một tốt lên. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị.

    Nước Tề thấy nước Lỗ mạnh lên, có ý lo ngại. Vua Tề theo kế, lập ra Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Khổng Tử biết vua Tề có ý dùng chuyện hưởng lạc để làm suy bại chính sự nước Lỗ nên khuyên Lỗ Định công đừng nhận, nhưng Định công không nghe. Quả nhiên vua Lỗ sau khi nhận Bộ Nữ Nhạc sinh ra lười biếng mà chán ghét Khổng Tử. Lỗ Định công không nghe lời can gián của Khổng Tử, bỏ bê việc triều chánh, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho quyền thần. Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, chán nản xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu. Đạo làm quan của ông thể hiện qua lời ông nói với Nhan Hồi "Dùng ta thì ta giúp làm nên sự nghiệp, không dùng thì ta ở ẩn. Chỉ có ta và ngươi có thể làm được điều này mà thôi.".

    Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông cũng chỉnh lý lại các bản nhạc nước Lỗ khiến cho nhạc nhã và nhạc tụng mỗi loại có vị trí thích đáng của nó. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của triều đình và thường chỉ thu nhận con em của gia đình quý tộc. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ bất kể xuất thân sang hèn, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại. Tổng số môn đệ của Khổng Tử có lúc lên tới 3.000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị hiền. Trong số học trò của Khổng Tử, Nhan Hồi là người hiếu học nhất nhưng không may chết sớm. Khổng Tử nói "Nhan Hồi ư! Lòng dạ của trò ấy trong ba tháng không lúc nào xa rời đạo nhân. Các trò khác không được như vậy, chỉ là ngẫu nhiên làm việc nhân thôi.". Nhan Uyên, một học trò của Khổng Tử, ngậm ngùi than rằng "Đạo của thầy càng ngước trông lên càng thấy cao, càng nỗ lực nghiên cứu càng thấy sâu. Mới chiêm nghiệm thấy ở phía trước, đột nhiên lại hiện phía sau lưng. Thầy khéo léo dẫn dắt dần dần từng bước trước sau giảng cho ta thấu triệt. Thầy dùng đủ loại văn chương, làm cho tri thức của ta thêm phong phú, lại biết dùng lễ tiết để đưa hành vi của ta dần vào khuôn phép, khiến cho mình dù muốn thôi cũng không thôi được, đã đua hết tài lực ra học thế mà vẫn trông thấy đạo của thầy ta như đang đứng sững trước mặt. Ta dẫu muốn theo đến cùng, mà vẫn không tài nào đạt được như yêu cầu của thầy ta.".

    Năm 69 tuổi, ông bắt tay vào việc biên tập các tác phẩm về văn hóa Trung Hoa bị tản mát, nhiều chỗ không rõ ràng, dễ bị thất truyền hoặc khiến người đời sau nhầm lẫn. Do vậy, Khổng Tử thực hiện san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước, lập thành 6 cuốn sách: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Mỗi cuốn lại nói về một vấn đề khác nhau, từ thi ca, nghi lễ, bói toán cho tới sử học. Việc Khổng Tử tự mình biên soạn 6 bộ sách đã thể hiện hiểu biết sâu rộng và tinh thần làm việc miệt mài của ông, có thể coi đây là một dạng Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. 6 cuốn sách này gồm:

    1. Kinh Thi (詩經 Shī Jīng): sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
    2. Kinh Thư (書經 Shū Jīng): ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
    3. Kinh Lễ (禮記 Lǐ Jì): ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự xã hội. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
    4. Kinh Dịch (易經 Yì Jīng): nói về các tư tưởng triết học Trung Hoa dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
    5. Kinh Xuân Thu (春秋 Chūn Qiū): ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa.
    6. Ngoài ra còn có Kinh Nhạc nói về nghệ thuật âm nhạc và các loại nhạc khí, nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy 6 cuốn sách chỉ còn lại 5 cuốn, đời sau gọi đây là Ngũ kinh. Ngày nay, Ngũ kinh giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong các tác phẩm cổ điển Trung Quốc, nhờ có nó mà tới 2.500 năm sau, người Trung Quốc có hiểu biết tường tận về đời sống các mặt của tổ tiên trong xã hội xưa.

    Trong 6 cuốn sách, Khổng Tử ghi chú các lời nói của Thánh hiền đời trước, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, ông chú giải rất kỹ. Sau đó, Khổng Tử viết ra Kinh Xuân Thu, chép những việc của nước Lỗ và của nhà Chu liên hệ với các nước chư Hầu từ đời Lỗ Ẩn Công nguyên niên (721 trước Tây lịch) đến đời Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng là 242 năm. Khổng Tử thấy thời thế loạn lạc, chính đạo mờ mịt, các tà thuyết dấy lên, những sự hung bạo rất nhiều, con giết cha, bề tôi phản nghịch, cho nên ông lấy làm lo sợ mà làm ra sách Xuân Thu, để định sự chính danh, thưởng phạt theo đạo lý. Đây là cuốn kinh mà Khổng Tử tâm đắc nhất, là một trong những tác phẩm sử học đầu tiên của Trung Hoa, trước cả Sử ký Tư Mã Thiên.

    Xem hình thể bề ngoài thì Kinh Xuân Thu là một bộ sử biên niên, lời lẽ vắn tắt, lắm chỗ hình như không có ý nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến tinh thần thì là bộ sách triết lý về việc chính trị. Phép của Kinh Xuân Thu là trị kẻ gian ác, dù còn sống hay chết rồi, trị ngay đến bản thân, cốt để răn kẻ ác, khuyến khích trung nghĩa, còn đến con cháu xa thì là để khuyến thiện, bỏ ác theo thiện. Khổng Tử đã vận dụng bút pháp để khen chê, để phân biệt người thiện kẻ ác hết sức minh bạch và đanh thép, nên người đời sau gọi đó là những búa rìu giáng lên kẻ gian tà, răn đe chúng suốt ngàn đời sau:

    Trong kinh Xuân Thu, được một chữ khen thì vinh hơn cái áo hoa cổn vua ban, bị một chữ chê thì nhục hơn phải tội rìu búa (Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn; nhứt tự chi biếm, nhục ư phủ việt)
    Từ khi Khổng Tử nêu cao cái nghĩa trong Kinh Xuân Thu, bọn loạn thần tặc tử trong thiên hạ đều phải khiếp sợ (Khổng Tử tác Xuân Thu nhi loạn thần tặc tử cụ).

    Mùa Xuân năm Lỗ Ai công thứ 14 (481 TCN), tương truyền người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què chân trái phía trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc, ông than rằng: "Ngô đạo cùng hỹ! (Đạo của ta đến lúc cùng)". Sách Xuân Thu chép đến chuyện này thì hết, nên đời sau còn gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh.

    Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479 TCN), một hôm Khổng Tử chống gậy đi tản bộ trước nhà, vừa đi vừa hát: "Thái sơn kỳ đồi hồ! Lương mộc kỳ hoại hồ! Triết nhân kỳ nuy hồ! (Núi Thái sơn đổ ư! Cây gỗ tốt hư hoại ư! Triết nhân mòn mỏi ư!)" Học trò của ông là Tử Cống liền đến hỏi thăm, ông nói: "Ta biết mình sắp chết".

    Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất (tháng 4 năm 479 TCN) Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi. Trước khi mất Khổng Tử cảm thán "Chim phượng hoàng không bay đến, sông Hoàng Hà không xuất hiện đồ thư, một đời ta thế là hết.". Mộ của ông ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

    Tượng thờ Khổng Tử trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Việt Nam, được làm năm 1729
    Tượng thờ Khổng Tử trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Việt Nam, được làm năm 1729

    Lối sống và tính cách
    Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc gì, ông cũng để ý xem xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng tận mới thôi. Tánh ông ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào Thiên mệnh. Ông tin rằng con người được sinh ra trên đời này là có lý do, bản thân ông được Trời giao cho sứ mệnh góp sức xây dựng nên một xã hội quý trọng đạo đức và lòng hiếu học, và ông đã giành cả đời nỗ lực cho sứ mệnh đó.

    Ông là người nhân hậu, khiêm nhường, giản dị, chân thành, giàu tình cảm, ôn hòa mà nghiêm túc, uy nghi nhưng không thô bạo, cung kính mà an nhàn. Ông sống thanh đạm, trọng nghĩa khinh tài. Khổng Tử nói "Ăn cơm gạo thô, uống nước lã, khi ngủ co cánh tay mà gối đầu, niềm vui cũng ở trong đó rồi. Còn như dùng phuơng pháp không chính đáng để đạt được giàu có và phú quý, ta coi như đám mây trôi vậy". Một người ở xứ Đạt Hạng nói "Khổng Tử thật là vĩ đại, học rộng nhưng rất tiếc lại chẳng có danh tiếng gì!". Khổng Tử nghe được liền nói với học trò rằng "Ta làm cái gì ? Đánh xe ư ? Bắn tiễn ư ? Ta làm nghề đánh xe vậy!". Khi Khổng Tử ở nhà dáng dấp rất thoải mái, trên mặt biểu lộ thần thái hết sức hoài vui. Khi ăn uống ở nhà có tang, Khổng Tử không bao giờ ăn no. Hôm nào Khổng Tử đi phúng viếng đám tang, thì suốt ngày hôm đó không đàn hát nữa. Ông đối xử với các học trò bằng tình thương như cha đối với con còn các học trò kính trọng ông như người cha thứ hai của họ. Trong quan hệ thầy trò, ông gần gũi với họ và hết sức chân thành. Ông từng nói với các học trò "Các ngươi cứ tưởng ta còn giấu các ngươi điều gì sao? Ta đâu có giấu điều gì. Ta không có điều gì làm mà không cho các ngươi biết. Ta, Khổng Khâu là con người như vậy.". Ba việc mà Khổng Tử hết sức thận trọng là trai giới, chiến tranh và bệnh tật.

    Ông là người thông kim bác cổ nhưng chưa bao giờ tự nhận mình là người hiểu biết nhiều, ông biết rằng hiểu biết của một người chỉ là hạt cát so với kho tàng kiến thức của nhân loại. Khổng Tử nói "Ta có nhiều hiểu biết ư? Không! Ta không hiểu biết nhiều. Có một nông dân hỏi ta một vấn đề mà lúc đầu ta không biết tí nào cả nhưng ta đem hai mặt của vấn đề lật đi lật lại, suy nghĩ tìm hiểu, rồi giải thích tường tận cho người ấy hiểu rõ.". Khổng Tử thường hay nói về Kinh Thi, Kinh Thư và thực hành Kinh Lễ đều là những lời thanh nhã cả. Khổng Tử ít khi nói đến lợi, mệnh trời và nhân, không bao giờ bàn luận những chuyện quái dị, bạo lực, phản loạn, quỷ thần. Tử Lộ hỏi về việc tế lễ quỷ thần. Khổng Tử nói "Chưa biết phụng thờ con người làm sao có thể phụng thời quỷ thần ?". Tử Lộ lại hỏi "Con mạnh dạn hỏi thầy về đạo lý của sự chết". Khổng Tử nói "Chưa biết đạo lý của sự sống sao biết đạo lý của sự chết".

    Khổng Tử không dùng màu xanh da trời và màu đỏ nâu để viền quần áo, không dùng màu đỏ và màu tím. Mùa nóng, Khổng Tử mặc áo đơn bằng vải mỏng nhất định phải có áo lót ở trong. Mùa lạnh, thì mặc áo da cừu màu đen ở trong, mặc áo dài màu đen ở ngoài; hoặc mặc áo da hươu màu trắng ở trong, thì mặc áo dài màu trắng ở ngoài; còn nếu mặc áo da cáo màu vàng ở trong thì mặc áo dài vàng ở ngoài. Thường ngày áo da mặc ở nhà, may dài hơn lễ phục một ít, ống tay phải ngắn hơn ống tay trái một ít để tiện lợi khi làm việc. Khi ngủ nhất thiết phải mặc áo ngủ dài bằng một nửa người. Áo da cáo da hạc mặc làm việc ở nhà có lông dày và ấm. Khi mãn tang Khổng Tử thường hay đeo ngọc. Nếu không là áo xiêm mặc để đi tế lễ và đến công đường làm việc thì may giản dị hơn. Không mặc áo da cừu màu đen và đội mũ màu đen đi điếu tang. Mồng một hàng tháng Khổng Tử đều mặc triều phục vào chầu vua. Đến kỳ trai giới, Khổng Tử giữ mình sạch sẽ, mặc áo vải tinh khiết màu trắng, áo ngủ dài gấp rưỡi thân mình. Khi trai giới nhất định thay đổi bữa ăn thường ngày, nơi ở cũng thay đổi sang chỗ khác. Tuy không cầu kỳ cao lương mỹ vị nhưng Khổng Tử yêu cầu rất cao đối với thực phẩm. Khổng Tử thích ăn gạo giã trắng, ăn thịt thái mỏng. Khổng Tử không ăn lương thực để lâu ngày, thức ăn đã hôi thiu, rau quả đã héo úa, thịt cá sống đã đổi màu, thức ăn có mùi vị khó ngửi, nấu sống hay nát quá, thức ăn chín quá, thực phẩm không đúng mùa vụ, thức ăn nêm mắm muối gia vị không đúng kiểu cách, thịt thái không vuông vắn. Thức ăn, thịt cá trên mâm cỗ nhiều, Khổng Tử không bao giờ ăn quá mức bình thường. Chỉ có rượu là không giới hạn tửu lượng nhưng yêu cầu giữ mình không được say. Rượu và thịt khô mua ở chợ về là không dùng. Mỗi bữa đều ăn thêm gừng nhưng chỉ vừa đủ. Khi dự lễ ở tông miếu, Khổng Tử không để thịt cách đêm. Khi tế tại nhà riêng, Khổng Tử không để lại thịt tế quá ba ngày, chiếu trải ngay ngắn không ngồi, khi ăn cơm không mạn đàm với người khác, khi ngủ không nói chuyện với ai. Dù chỉ ăn cơm canh bình thường nhưng trước khi ăn Khổng Tử nhất định dành một ít để thờ cúng, thành tâm như khi trai giới. Khi ngủ Khổng Tử không duỗi thẳng tay chân như người chết. Bình thường ở nhà, Khổng Tử không trang điểm trau chuốt dung mạo.

    Khi Khổng Tử uống rượu với người trong làng, ông đợi các cụ cao tuổi rời khỏi mâm rồi mới rời sau. Khi người làng làm lễ nghênh thần tống quỷ ông mặc triều phục đứng ở thềm phía Đông. Khi nhờ người chuyển lời thăm hỏi của mình đến bạn mình ở nước khác, Khổng Tử vái người mình nhờ hai lạy để tiễn người ấy. Vua ban tặng Khổng Tử thức ăn chín, Khổng Tử nhất định trải chiếu ngay ngắn rồi mới ăn. Vua ban tặng cho thực phẩm sống, ông nấu xong đem cúng tế tổ tiên rời mới ăn. Vua ban tặng cho vật sống, Khổng Tử nhất định giữ lại để nuôi. Khi ngồi hầu cơm bên vua khi vua đang tế lễ, Khổng Tử nếm trước. Khổng Tử ốm tại nhà, khi vua đến thăm, Khổng Tử chuyển đầu hướng về phía Đông, đem triều phục đắp lên người với dây đai ở trên. Khi vua triệu Khổng Tử đến gặp, ông đi bộ tới ngay, không đợi xe. Bạn bè mất mà không có ai thân thuộc lo liệu, Khổng Tử nói "Việc này do ta chịu trách nhiệm". Khi bạn bè tặng lễ phẩm, dẫu quý như xe ngựa nhưng không phải là vật cúng tế được thì khi nhận Khổng Tử cũng không bao giờ bái tạ. Khổng Tử nhìn thấy người mặc áo tang thì thay đổi thái độ tỏ lòng thương xót. Khổng Tử nhìn thấy người đội mũ miện, mặc lễ phục hoặc người mù luôn đối xử với họ rất lịch sự. Ngồi xe đang đi trên đường, gặp người mặc tang phục, Khổng Tử cúi người về phía trước gật đầu như muốn chia sẻ nỗi buồn của tang chủ. Khổng Tử gặp người cầm sổ sách của nhà nước cũng cúi chào như vậy để tỏ lòng kính trọng người thừa hành công vụ. Khổng Tử khi làm khách, thấy chủ nhà dọn mâm thịnh soạn thì đứng lên cảm tạ lòng hiếu khách của chủ nhân rồi mới cầm đũa. Khi có sấm to bão lớn, Khổng Tử cũng thay đổi thái độ, nét mặt hiện vẻ lo lắng sợ thiên tai gây họa cho dân.

    Khổng Tử câu cá không bao giờ đánh bằng lưới, khi bắn chim không bao giờ bắn con đã về tổ nghỉ ngơi ấp trứng. Khổng Tử cùng ngồi hát với người khác, nếu phát hiện ai hát hay thì nhất định mời họ hát lại một lần nữa để mình cùng được hát theo. Khi nhìn thấy người mặc tang phục, người đội mũ miện mặc lễ phục và người mù, mặc dù họ còn rất trẻ thì Khổng Tử cũng nhất định dừng lại, nếu phải đi qua trước mặt họ thì đi rất nhanh. Khổng Tử không bao giờ mắc phải bốn sai lầm: không dựa vào ý riêng; không phán đoán khẳng định, áp đặt; không cố chấp; không tự cho mình là đúng cả. Một lần có người chỉ ra sai lầm của Khổng Tử, ông nói "Ta thật may mắn, giả dụ có sai lầm thì người ta cũng biết được". Khổng Tử là người am hiểu lễ nhạc. Ông nói "Khi nhạc sư Chí mới ra làm quan, tấu bản nhạc phổ theo bài thơ Quan Thư, tới khúc cuối cùng, tiếng nhạc dào dạt, nghe vui thích, thuận tai lắm thay!".

    Ông sống trong thời kỳ trật tự xã hội đã suy đồi, chư hầu lấn quyền thiên tử, đại thần tiếm đoạt ngôi chư hầu dẫn đến cảnh chém giết nhau hỗn loạn, không còn đạo lý, kỷ cương. Đau lòng trước cảnh này Khổng Tử than: "Các dân tộc Di Địch lạc hậu ở biên giới còn có vua, không như các dân tộc Hoa Hạ ở Trung Nguyên cứ như thể chẳng có vua gì cả!". Ông mong muốn tái lập lại trật tự xã hội, làm cho mọi người trở nên tốt đẹp hơn, đối xử với nhau hòa hảo, thân ái. Một lần Khổng Tử tâm sự với học trò "Nguyện vọng của ta là muốn cho người già được nuôi dưỡng đầy đủ, bạn bè tin cậy lẫn nhau, trẻ nhỏ được quan tâm chăm sóc.". Bản thân ông lại thích cuộc sống an nhàn, tự do tự tại. Khi Khổng Tử hỏi chí hướng của học trò ông là Tăng Tích, người này thưa "Tháng ba cuối xuân mặc trang phục mùa xuân, cùng hẹn với năm sáu bạn trẻ, sáu bảy em nhỏ đến sông Nghi tung tăng bơi lội tắm mát, lên đài cầu mưa Vũ Vu nhảy múa hứng gió, vừa đi vừa ngâm vịnh mà trở về nhà.". Khổng Tử ngậm ngùi than rằng "Ta tán thành cách suy nghĩ của con.".

    Khổng Tử khi ở quê hương, đứng trước mặt cha anh, bạn bè thì hết sức khiêm tốn, kính cẩn vâng lời, chẳng hề tranh với ai điều gì. Khổng Tử rất ít nói, có lúc tựa như chẳng biết nói năng gì. Nhưng khi ra nơi tông miếu triều đình, giải quyết công việc, Khổng Tử ăn nói rất lưu loát, mạch lạc, chững chạc đâu ra đấy; duy có điều lời lẽ rất cẩn thận, không tùy tiện bao giờ. Ở triều đình, khi nói chuyện với quan đại phu dưới quyền, Khổng Tử rất cương nghị, thẳng thắn; khi nói chuyện với quan đại phu bậc trên luôn luôn giữ thái độ hòa nhã. Khi vua đến Khổng Tử tỏ ra hết sức cung kính rụt rè, trong lòng như có điều gì chưa yên tâm, không thể hiện cử chỉ nào thất lễ. Khi vua triệu đến tiếp khách quý, tiếp chỉ xong, sắc mặt Khổng Tử thay đổi ngay, tỏ ra hết sức nghiêm trang. Trước mặt tân khách, Khổng Tử tỏ ra hết sức chu đáo, cẩn thận, chân bước nhanh hơn. Đứng chào khách, Khổng Tử chắp hai tay cúi đầu chào khách bên trái rồi bên phải, còn quần áo mặc khi tiếp khách thì ngay ngắn, phía sau cũng chỉnh tề như phía trước. Khi dẫn khách vào Khổng Tử lanh lẹ đi trước dẫn đường, hai cánh tay thẳng, tựa hồ như chim duỗi cánh. Khi khách cáo từ ra về, Khổng Tử liền trở vào tâu với vua rằng "Khách không còn ngoảnh mặt lại nữa" ý muốn thưa rằng mọi việc tiếp đãi, bàn luận đã hết sức chu đáo. Khi bước vào cửa cung điện nơi vua và đại thần hội họp Khổng Tử hết sức kính cẩn hơi có vẻ lo lắng cảm thấy mình bé nhỏ như không có chỗ dung thân, như chưa xứng đáng với thân phận của mình. Khổng Tử khi đi ngang qua ngai vua thì sắc mặt hơi đổi, chân bước nhanh hơn, nói năng khe khẽ như không đủ lời. Khi vén áo bước lên công đường Khổng Tử cúi mình nín thở. Khi trở ra, xuống một bậc thềm thì sắc mặt thư giãn, trở nên vui vẻ thư thái; xuống đến bậc thềm chót thì rảo bước, đưa hai tay như chim xòe cánh. Khi trở lại chỗ của mình, Khổng Tử lại giữ vẻ cung kính. Khổng Tử lĩnh mệnh vua đi sứ các nước, hai tay cầm thẻ Ngọc Khuê dâng lên vua chư hầu rất cung kính, dường như nâng không nổi vậy. Khổng Tử giơ cao Ngọc Khuê lên như để vái chào, rồi hạ xuống ngang ngực, báo hiệu chuẩn bị dâng lễ; nét mặt tỏ ra kính sợ, chân bước rón rén như phải vịn vào vật gì mới đi nổi. Khi dâng lễ vật của vua sắc mặt Khổng Tử tươi tắn, ôn hòa, trang trọng. Khi dâng lễ của riêng mình thì hết sức thoải mái vui tươi.

    Trong suốt cuộc đời dạy học, viết sách và du thuyết của mình, Khổng Tử luôn tự vấn bản thân "Im lặng nhớ kỹ những điều đã học được; kiên trì học tập không biết chán, dạy bảo người khác không biết mệt mỏi. Trong ba việc này ta đã làm được việc nào ?", "Ở triều đình thì tôn kính các bậc công khanh; ở nhà thì hiếu để với cha anh; gặp việc tang chẳng dám không có lễ tiết cho chu toàn; rượu chè không đến nỗi quá say mà lèm nhèm. Những việc đó ta đã làm được việc nào chăng ?". Ông nói "Đức hạnh không tu dưỡng, học vấn không giảng giải, nhìn thấy việc nghĩa không làm, tự có điều sai không chịu sửa chữa, những điều này là nỗi lo của ta.". Phương châm sống của ông là "Lập chí vì đạo, giữ vững lấy đức, noi theo điều nhân, vui chơi trong lục nghệ".

    Khổng Tử tự thuật về cuộc đời ông:
    Tam thập nhi lập; (三十而立) (30 tuổi có thể tự lập vững vàng)
    Tứ thập nhi bất hoặc; (四十而不惑) (40 tuổi có thể hiểu thấu mọi sự trong thiên hạ, có chính kiến rõ ràng, kiên định, không còn nghi ngờ về lẽ sống của mình)
    Ngũ thập nhi tri thiên mệnh; (五十而知天命) (50 tuổi có thể thông suốt chân lý của tạo hoá, biết được xu thế của thời cuộc)
    Lục thập nhi nhĩ thuận; (六十而耳順) (60 tuổi thì đạt đến độ hoàn hảo về tri thức và kinh nghiệm cuộc sống, không còn thấy chướng tai gai mắt)
    Thất thập nhi tòng tâm dục bất du cự. (七十而從心欲,不踰矩) (70 tuổi thì tâm tính và đạo lý đã hợp nhất, nghĩ và làm chẳng vi phạm phép tắc, không để ham muốn chi phối)
    (Luận Ngữ)

    Sách Trung Dung nói về Khổng Tử "Khổng Tử tôn sùng tiếp nối đạo đức của vua Nghiêu, vua Thuấn; noi theo và làm sáng tỏ phép tắc của vua Văn Vương, vua Vũ Vương, trên thuận thiên thời, dưới hợp địa lý. Đức của Khổng Tử vĩ đại như trời đất, không có cái gì không chứa nổi, không có cái gì không che chở; lại giống như bốn mùa thay nhau luân chuyển, như mặt trời, mặt trăng thay nhau tỏa sáng." còn ông chỉ khiêm tốn tự nhận "Một thôn có chục nhà thì nhất định có một người trung tín như ta, chỉ khác không ham học như ta. Ta không phải là người sinh ra đã biết tất cả, mà do hâm mộ đạo nghĩa đời xưa, nên cần mẫn học tập mà có được tri thức như hiện nay. Về tri thức văn hóa thì ta cũng chỉ bằng người khác. Nếu nói về làm một người quân tử tu thân hành đạo trong thực tiễn thì ta vẫn chưa làm được bao nhiêu. Nếu khoác cho ta hai chữ thánh nhân ta đâu dám nhận. Nhưng thực hiện theo công việc của bậc thánh và bậc nhân thì ta từ trước đến nay chưa biết chán, dạy học trò chưa bao giờ biết mệt mỏi, chỉ có vậy thôi.".

    Dạy học
    Nội dung
    Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan trọng của sự học, và chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế, ông được người Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh Xuân Thu) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).

    Sự giáo hóa của Khổng Tử chủ yếu là làm sao cho sáng tỏ cái đức sáng của con người, chớ không đặt trọng tâm vào sự truyền thụ kiến thức. Đây là một phương pháp giáo dục rất hay để khai mở cái Tâm của con người. Nền giáo dục hiện đại, nhiều nơi làm ngược lại: đặt trọng tâm vào sự truyền thụ kiến thức chứ không quan tâm đến giáo dục đạo đức lối sống, cho nên cái Tâm của học trò không được mở mang khiến họ dễ thành kẻ xấu. Đó là điều mà Khổng Tử tối kỵ, ông xem đó là dạy tiểu xảo chứ không phải dạy Người.

    Khổng Tử coi việc dạy học là để mưu cầu lợi ích cho nhân dân chứ không phải để mưu lợi cá nhân. Ông nói "Chỉ cần tự mình dâng lên một xâu thịt khô làm lễ xin học, thì ta chưa từng bao giờ từ chối ai làm học trò của ta.". Nội dung giáo dục của Khổng Tử đối với học trò có bốn mặt là văn, hạnh, trung, tín. Người làng Hỗ Hương rất khó cùng trò chuyện. Một đứa trẻ làng ấy đến yết kiến Khổng Tử xin vào học. Học trò của Khổng Tử cảm thấy nghi hoặc không hiểu nổi. Khổng Tử nói "Ta tán thành mặt tiến bộ của họ, không tán thành mặt yếu kém của họ. Chẳng việc gì phải đối xử quá đáng với họ. Người ta thanh khiết tốt đẹp đến với mình thì nên tán thành sự thanh khiết tốt đẹp của họ, không nên cứ truy cứu việc quá khứ của họ.".

    Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, ông muốn tái lập Thiên Mệnh để có thể thống nhất "thiên hạ" (天下, mọi thứ dưới gầm trời, ở đây nghĩa là Trung Quốc) và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho nhân dân. Vì thế Khổng Tử thường được coi là người đã đề xướng chủ nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta thấy ông đã sử dụng (và có thể cố ý bóp méo) những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một hệ thống chính trị mới của riêng mình. Ông mơ ước về sự khôi phục một vương quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn xứng đáng theo đạo đức (như vua Nghiêu, vua Thuấn) chứ không phải theo dòng họ. Những người cai trị phải hành động vì nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy có thể dùng đạo đức của mình giáo hóa nhân dân thay vì áp đặt mọi người bằng pháp luật và quy định.

    Nhiều khía cạnh tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn lưu truyền và phát huy đến tận ngày nay. Có được sự trường tồn đó, là ở tinh thần đam mê học hỏi và thái độ nghiêm túc đối với việc học của Khổng Tử. Ông nói: "Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình". Theo Ông, đã không học thì thôi chứ đã học là phải "Học cho rộng, hỏi cho kỹ; nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng tỏ, làm cho hết sức. Có điều không học nhưng đã học điều gì thì phải học cho kỳ được. Có điều không hỏi, nhưng khi đã hỏi điều gì thì phải hỏi cho thật hiểu. Có điều không nghĩ nhưng đã nghĩ điều gì thì phải nghĩ cho ra. Có điều không phân biệt nhưng đã phân biệt điều gì thì phải phân biệt cho minh bạch. Có điều không làm nhưng đã làm điều gì thì phải cố hết sức mà làm cho bằng được… Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu mà cũng thành sáng, yếu đuối rồi cũng thành ra khoẻ mạnh".

    Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là "Lễ và Nhạc", coi hai thứ đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hoà. Lễ là các yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế; còn Nhạc (âm nhạc, văn nghệ) là để thống nhất mọi con tim cùng chung vui, cũng là để giữ gìn đức hạnh. Ông nói thêm rằng lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông. Cả hai còn là cách truyền đạt giữa lòng nhân của một người và hoàn cảnh xã hội của anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xã hội, như Ngũ Thường (năm mối quan hệ chủ yếu): quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè). Các trách nhiệm luôn được cân bằng, và nếu một thần dân phải tuân lệnh vua, thì thần dân cũng phải can ngăn khi nhà vua sai lầm.

    Khổng Tử chú trọng vào sự tu dưỡng đạo đức cá nhân trước tiên, sau đó nuôi dưỡng gia đình, rồi mới đến cai trị thiên hạ bằng lòng nhân từ: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ". Ông nhấn mạnh vào Ngũ thường: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín". Nhân là lòng từ thiện, Nghĩa là làm tròn bổn phận, Lễ là sự tôn ti trật tự hay quy tắc trong việc đối nhân xử thế với người trên kẻ dưới, Trí là trí tuệ minh mẫn làm việc gì cũng phải suy nghĩ, Tín là lòng thành thực hiện điều đã nói. Người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.

    Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông hệ thống thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lý đã được tạo dựng đầy đủ, gọi là Khổng giáo. Sau hơn 1.500 năm, học giả Chu Hi đã diễn giải ý tưởng Khổng giáo theo một cách hoàn toàn mới, được gọi là Tân Khổng giáo, để phân biệt với những ý tưởng trong cuốn Luận Ngữ. Tân Khổng giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác cho tới tận thế kỷ 20.

    Tư Mã Thiên đã có lời bình về Khổng Tử: "Trong kinh "Thi" có câu nói như thế này: "Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về "Lục Nghệ" thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng".

    Mộ Khổng Tử tại Khúc Phụ, quê hương ông. Khổng miếu, mộ Khổng Tử và khu nhà thờ của họ Khổng nay là một di sản thế giới do UNESCO công nhận.
    Mộ Khổng Tử tại Khúc Phụ, quê hương ông. Khổng miếu, mộ Khổng Tử và khu nhà thờ của họ Khổng nay là một di sản thế giới do UNESCO công nhận.

    Phương pháp giáo dục
    Một trong những giáo lý sâu sắc nhất của Khổng Tử, một trong những điều khó hiểu nhất từ quan điểm phương Tây, có thể là việc ông sử dụng những câu chuyện cách ngôn chứ không giảng giải trực tiếp cách cư xử cho các môn đồ. Đạo đức của ông có thể được coi là một trong những kiểu đạo đức cao nhất. Cách dạy "gián tiếp" này được sử dụng rất nhiều trong các bài giảng của ông thông qua những lời ám chỉ, nói bóng gió, và thậm chí là sự lặp thừa. Điều này giải thích tại sao khi nghiên cứu cần đặt các bài giảng của ông vào đúng ngữ cảnh.

    Một ví dụ là câu chuyện sau:

    Từ triều về nhà, nghe tin chuồng ngựa cháy, Khổng Tử nói, "Có ai bị thương không?" Ông không hề hỏi về Ngựa.

    Luận Ngữ
    Câu chuyện không dài, nhưng có tầm quan trọng rất lớn. Ở thời ông, một con ngựa có thể đắt gấp 10 lần một nô lệ. Khi không hỏi tới ngựa, Khổng Tử thể hiện sự quan tâm lớn nhất của mình: con người. Vì thế, theo nhiều nhà bình luận cả Đông và Tây, những bài giảng của Khổng Tử có thể được coi là một biến thể kiểu Trung Hoa của Chủ nghĩa nhân đạo.

    Có lẽ bài giảng nổi tiếng nhất của ông là Quy tắc vàng:

    Tử Cống hỏi: "Có một chữ nào có thể dẫn dắt hành xử trọn đời không?"
    Thầy đáp: "Có lẽ là chữ Thứ (恕)chăng? Cái gì mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác?"

    Luận Ngữ
    (Điều mình không muốn đừng bắt người phải chịu thì gọi là Thứ 恕)
    Để đào tạo ra những con người lý tưởng, Khổng Tử đã đề xuất một hệ thống phương pháp giáo dục khá chặt chẽ, với những kiến giải sâu sắc. Có thể nói với hệ thống phương pháp giáo dục này Khổng Tử xứng đáng là một nhà giáo dục lớn. Khổng Tử đã sử dụng nhiều phương pháp dạy học rất độc đáo, có thể khái quát lại gồm:

    Một là: Phương pháp đối thoại gợi mở, giảng dạy bằng cách trao đổi giữa thầy và trò, giữa người dạy và người học nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và khoa học, khả năng tư duy của người học. Ông nói: "Kẻ nào chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào chẳng ráng lên để tỏ ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết rõ một góc, nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng dạy kẻ ấy nữa."

    Hai là: Phương pháp kết hợp học đi đôi với hành, lời nói kết hợp với việc làm, là thực hành điều đã học và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống. Ông nói: "Người quân tử trước học văn chương (như Kinh Thi, Kinh Thư) đặng mở rộng trí thức của mình; kế đó, người nương theo lễ giáo mà kiềm giữ lấy nết mình; nhờ vậy mà khỏi trái đạo lý. - Quân tử bác học ư văn; ước chi dĩ lễ; diệc khả dĩ phất bạn hỹ phù".

    Ba là: Phương pháp "ôn cũ biết mới", thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và học tập. Ông thường nhắc rằng: "Người nào ôn lại những điều đã học, do nơi đó mà biết thêm những điều mới, người đó có thể làm thầy thiên hạ đó - Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hỹ". Theo Khổng Tử, muốn tiến bộ người học phải luôn cố gắng nỗ lực, siêng năng trau dồi tri thức cho mình, phải luôn có thái độ cầu tiến, vượt lên. Người học nhất định phải có thái độ khách quan trong học tập, không được vị kỷ tư dục, võ đoán, cố chấp, tự phụ chủ quan - "vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã".

    Khổng Tử đã đưa ra hệ thống các phương pháp giáo dục, phát huy tính năng động, tích cực và sáng tạo của người học. Những phương pháp đó đến nay vẫn có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả cao trong giáo dục.

    Trong quá trình giáo dục, Khổng Tử nhấn mạnh: cả thầy và trò đều phải có nghĩa vụ to lớn với nhau. Trò phải tôn kính thầy, dẫu sau này có thành đạt, quyền cao chức trọng đến đâu chăng nữa cũng không được bỏ rơi lễ nghĩa, vẫn luôn phải cung kính thầy. Ngược lại, người thầy thì phải có tư cách mẫu mực để làm gương cho trò. Người thầy có can trực, đạo đức, như thế mới có thể đào tạo nên những học trò hữu ích cho đất nước. Trong Lịch sử Việt Nam có chuyện kể rằng: Phạm Sư Mạnh sau khi đỗ đạt, làm quan to ở triều, về thăm thầy là Chu Văn An. Dọc đường qua khu chợ đang họp, ông ra uy để lính thét dân phải dẹp đường. Biết chuyện, Chu Văn An giận Phạm Sư Mạnh làm quan mà tỏ ra hách dịch với dân, làm trái lời thầy dạy, nên không cho gặp mặt. Dù đã là quan lớn triều đình, Phạm Sư Mạnh vẫn phải quỳ gối cả buổi trước cửa nhà thầy để xin tha lỗi, về sau cũng hành xử khiêm nhường không dám hách dịch nữa.

    Khổng Phu Tử, minh hoạ trong cuốn Thần thoại và Truyền thuyết Trung Hoa, 1922, của E.T.C. Werner
    Khổng Phu Tử, minh hoạ trong cuốn Thần thoại và Truyền thuyết Trung Hoa, 1922, của E.T.C. Werner

    Tên gọi
    Khi dịch sách Trung Quốc sang các ngôn ngữ phương Tây, các thầy tu dòng Tên đã dịch 孔夫子 thành Confucius. Cách Latinh hóa tên Khổng Tử này từ đó đã được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Tây.
    Theo Latinh hoá:
        Kǒng Fūzǐ (hay Kǒng fū zǐ) trong bính âm.
        K'ung fu-tze trong Wade-Giles (hay, kém chính xác hơn, Kung fu-tze).
            Fūzǐ (Phu Tử) có nghĩa là nhà giáo. Bởi vì theo văn hóa Trung Quốc việc gọi thầy bằng tên là bất kính, ông chỉ được gọi là "Thầy Khổng", thậm chí cho tới tận ngày nay.
            Từ 'fu' (Phu) không bắt buộc, vì thế ông cũng thường được gọi là Khổng Tử.

    Tên thật của ông là 孔丘, Khổng Khâu. Khổng là một họ phổ biến ở Trung Quốc.
    Tên hiệu của ông là 仲尼, Trọng Ni.
    Năm thứ 1 sau Công Nguyên (năm đầu thời Nguyên Thuỷ Nhà Hán), ông được trao thụy hiệu đầu tiên: 褒成宣尼公, Bao Thành Tuyên Ni Công, có nghĩa "Ngài Ni (Khổng Tử) Công Đức Đáng Ca Ngợi."

    Các thụy hiệu nổi tiếng nhất của ông là
        至聖先師, Chí Thánh Tiên Sư, nghĩa "Bậc Thầy Đời Trước Đã Đạt Tới Bậc Thánh" (từ năm Gia Tĩnh thứ 9, Nhà Minh (năm 1530));
        至聖, Chí Thánh, "Bậc Thánh";
        先師, Tiên Sư, "Bậc Thầy Đầu Tiên".
    Tại Đài Loan, ông cũng thường được gọi là 萬世師表, Vạn Thế Sư Biểu, "Bậc Thầy Của Muôn Đời".

    Triết học
    Dù Khổng giáo thường được người Trung Quốc tin theo như một tôn giáo, vẫn tồn tại những cuộc tranh luận về việc liệu đó có phải là một tôn giáo không, bởi Khổng giáo ít đề cập tới các vấn đề thần học hay duy linh (quỷ thần, kiếp sau, vân vân).

    Các triết lý của Khổng Tử được chấp nhận chủ yếu bởi nó dựa trên nền tảng quan điểm phổ thông trong xã hội Trung Quốc. Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tôn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một xã hội lý tưởng. Ông đã tuyên bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Ông cũng luôn lấy quá khứ ra làm chuẩn mực, và khuyên người Trung Quốc, đặc biệt là tầng lớp chính trị, tự đổi mới mình dựa trên những hình mẫu những vị vua hiền trong quá khứ.

    Nói về triết học của đức Khổng Tử, có hai chủ thuyết là nhân sinh quan và vũ trụ quan. Nhân sinh quan có hai mặt là cơ xuất thế và cơ nhập thế. Cơ nhập thế là nói về mười lăm đức, con người phải có đạo đức, nếu không có đức con người có khác gì cầm thú. Còn về cơ xuất thế là tánh mạng song. Cụ thể trong Trung Thiên dịch, là cơ năng chuyển hóa từ hậu thiên trở về với Thiên tiên. Trong quẻ Bát Thuần Càn có câu, Càn đạo biến hóa các Chánh tánh mạng, bảo hiệp Thái hòa mải lợi trinh... Con người có tánh, tức là có tâm hồn là thần trí của ta nó là thể vô hình. còn mạng ta, tức là hình thể xác thân là khí huyết. Bên Đạo Giáo gọi là Thần Khí, bên Phật giáo gọi là Tâm tức.

    Về vũ trụ quan của ông thể hiện bằng tám quẻ: Càn là Trời, Khôn là Đất, Ly là mặt Nhật, Khảm là mặt Nguyệt... Như vậy triết lý tự nhiên của ông rất siêu hình.

    Tư Mã Thiên đã đánh giá Khổng Tử như sau: "Trong thiên hạ các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải thế mà truyền hơn mười đời, các học giả đều tôn làm thầy, từ thiên tử tới vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến lục nghệ đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Có thể gọi là bậc Chí Thánh vậy".
    Tượng Khổng Tử tại Québec, Canada.
    Tượng Khổng Tử tại Québec, Canada.

    Đạo đức
    Lý thuyết đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính:

    Khi Khổng tử trưởng thành, lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời: hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xã hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là quy phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con người, lấy đó mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
    Đối với Khổng tử, Nghĩa (義 [义]) là nguồn gốc của Lễ. Nghĩa chính là cách hành xử đúng đắn. Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người cư xử theo lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay vì theo đuổi quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là hợp lẽ và đạo đức. Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo Nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải nuôi dưỡng chăm sóc đưa trẻ toàn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.

    Cũng như Nghĩa xuất phát từ Lễ, thì Nghĩa cũng xuất phát từ Nhân (仁). Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Nhân là trung tâm của các đức tính: tình cảm chân thật, ngay thẳng; hết lòng vì nghĩa; nghiêm trang, tề chỉnh; rộng lượng, khoan dung và siêng năng cần mẫn. Người có đức Nhân chỉ hành động vì nhân nghĩa, đối lập với kẻ bất nhân chỉ hành động vì lợi.

    Hệ thống đạo đức của Khổng Tử dựa trên lòng vị tha và hiểu những người khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như một quyền lực thần thánh. Để sống mà được cai trị bằng Nhân thì thậm chí còn tốt hơn là sống trong luật pháp của Nghĩa. Để sống có nhân thì ta theo nguyên tắc vàng của Khổng tử: ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối xử với người khác đúng như những gì họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hòa với mọi người.

    Khổng Tử nói: "Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngu, muốn trí mà không muốn học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà không muốn học thì bị cái che mờ là hại nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng mà không muốn học thì bị cái che mờ là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh suất".

    Ông áp dụng nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái gì mà ta không muốn thì đừng làm cho người khác"

    Dựa theo mức độ tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử chia loài người thành ba hạng:

    Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao chân lý minh triết.
    Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.
    Tiểu nhân: Kẻ "hèn mọn", hành động không màng tới đạo đức.

    Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, mà còn khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung".

    Chính trị
    Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "Lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: "Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vây tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ Thư - Luận Ngữ, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2003) Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.

    Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, nguyên nhân là vì tình trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời Xuân Thu, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế sự lạm quyền của những nhà cai trị. Theo ông người cầm quyền phải có đạo đức, đặt nhân nghĩa lên hàng đầu và đặt lợi ích của dân chúng cao hơn lợi ích bản thân. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Sự thành thật có thể làm cảm động lòng người, quy tụ thiên hạ. Ông nói "Có lòng thành thật thì sẽ biểu hiện ra ngay. Hiện rõ ra rồi thì sẽ sáng chói. Sáng chói thì sẽ cảm động đến lòng người". Thậm chí Khổng Tử còn ca ngợi người lãnh đạo biết nhường quyền lực cho người tài đức hơn mình. Ông nói "Thái Bá là con người có đức hết mực. Nhiều lần ông ta đem thiên hạ nhường cho người khác, nhưng không để dân chúng biết mà ca ngợi công đức của mình".

    Khi bàn luận về mối quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên. Điều này không có nghĩa là người dưới phải răm rắp tuân theo mọi mệnh lệnh từ người trên như nhiều người hiện nay suy diễn sai mà người dưới phải đưa ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng này được học trò của ông là Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu nhà vua không coi trọng nhân dân và có những hành vi gây hại cho đất nước, ông ta sẽ mất Thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. Vì thế hành động giết bạo chúa không bị coi là phản nghịch mà là đúng đắn, bởi vì tư cách của kẻ bạo chúa giống một kẻ cướp hơn là một vị vua. Ngược lại người trên cũng phải dùng lễ nghĩa đối xử với người dưới nếu không sẽ bị xem là vô đạo.

    Danh ngôn
    Đến mùa giá lạnh mới biết cây tùng, cây bách rụng lá sau cùng.
    Buổi sáng biết được chân lý thì dù cho buổi chiều có chết cũng cam tâm.
    Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, như thế cũng là người thông minh có hiểu biết rồi vậy.
    Ba người cùng đi với nhau, trong hai người thế nào cũng có một người đáng làm thầy ta. Ta chọn điều tốt để học theo, còn điều không tốt thì biết để sửa chữa.
    Cung kính mà thiếu lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành loạn nghịch. Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ.
    Người quân tử quan tâm đến đạo đức, kẻ tiểu nhân khao khát ruộng vườn nhà cửa. Người quân tử quan tâm đến phép tắc, kẻ tiểu nhân mong cầu ân huệ.
    Chỉ có người có đức nhân mới có thể hay yêu người và hay ghét người.
    Người quân tử xa rời đạo nhân làm sao có thể xứng danh quân tử được. Người quân tử không bao giờ xa rời đạo nhân dù chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn. Dù cho ở hoàn cảnh bức bách khốn cùng, phải phiêu bạt nơi đất khách quê người cũng không bao giờ xa rời đạo nhân.
    Sai lầm người ta mắc phải có quan hệ đến loại người. Loại người như thế nào thì sẽ phạm sai lầm như thế ấy. Xem sai lầm của một người đã phạm, có thể biết người đó có đức nhân hay không.
    Người quân tử là người tìm cách cứu người, chứ không thể nhảy xuống giếng mà hại thân. Người quân tử có thể bị lừa bởi những điều có lý nhưng không thể bị hại bởi những điều xằng bậy vô lý.
    Nhìn thấy việc chính nghĩa không dám làm, là không có dũng khí.
    Nước nhà thái bình mà mình lại nghèo hèn, như vậy là đáng sỉ nhục. Nước nhà loạn lạc mà mình giàu có như vậy cũng là đáng sỉ nhục.
    Người xưa không để khinh suất khi nói ra, bởi sợ xấu hổ vì không thực hiện được lời mình đã nói.
    Người quân tử ung dung mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung. Người quân tử luôn thẳng thắn, vô tư. Kẻ tiểu nhân lúc nào cũng lo lắng, u sầu.
    Người thiện là người không theo dấu chân của người khác mà đi nhưng trình độ học vấn của họ cũng chưa đến mức thật hoàn thiện.
      
    Môn đồ
    Môn đồ và là người cháu duy nhất của ông, Tử Tư, tiếp tục duy trì trường phái triết học Khổng Tử sau khi ông qua đời. Trong khi vẫn dựa chủ yếu vào hệ thống đức trị của Khổng Tử, hai trong số những môn đồ nổi tiếng nhất của ông nhấn mạnh trên những khía cạnh khác biệt trong giáo lý của ông.. Mạnh Tử tin vào tính thiện vốn có của con người, trong khi Tuân Tử đề cao sự thực tế và những khía cạnh vật chất trong tư tưởng Khổng Tử.

    Ở thời Nhà Tống, học giả Chu Hi đã thêm các ý tưởng từ Đạo giáo và Phật giáo vào Khổng giáo. Trong suốt cuộc đời mình, Chu Hi không được mọi người biết tới, nhưng không lâu sau khi ông mất, những ý tưởng đó trở thành một quan điểm chính thống mới về những ý nghĩa thực sự của tư tưởng Khổng Tử. Các nhà sử học hiện đại coi Chu Hi là người đã tạo ra một thứ gì đó khác biệt và gọi tư tưởng của ông là Tân Khổng giáo. Ở thời hiện đại, vẫn có một số học giả nghiên cứu Nho giáo nhưng trong thời Cách mạng Văn hoá, Khổng giáo thường bị những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc lên án.

    Quê hương
    Ngay sau khi Khổng Tử mất, Khúc Phụ (曲阜) quê hương ông đã trở thành nơi hành hương bày tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ ông. Hiện đây vẫn là một địa điểm du lịch văn hóa nổi tiếng, nhiều người Trung Quốc thường xuyên viếng thăm mộ và những ngôi đền xung quanh. Tại Trung Quốc, có nhiều ngôi đền nơi Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo cùng hiện diện. Cũng có nhiều ngôi đền thờ riêng Khổng Tử, chúng thường là nơi tổ chức những buổi lễ tưởng nhớ ông.

    Các triều đại phong tặng Khổng Tử các danh hiệu sau:
    Năm 739, vua Đường Huyền Tông phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên Vương, tượng thờ ông được mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các tước: Công, Hầu, Bá.
    Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong là: Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong cho cha Khổng Tử là Lỗ Công, mẹ là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị làm Vân Phu Nhân, và ra lệnh cho các tỉnh lập miếu thờ ông.
    Năm 1560, vua Minh Thế Tông phong tặng ông là Chí Thánh Tiên Sư.
    Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong ông là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.

    Hậu duệ
    Con cháu Khổng Tử luôn được các vị vua chúa các triều đại phong kiến sau này kính trọng và được phong tước quý tộc cũng như giữ một số chức vụ quan lại triều đình.

    Đầu tiên, hoàng đế Hán Cao tổ đã phong cho cháu đời thứ 9 của Khổng Tử là Khổng Đằng chức "Phụng Tự quân", trông coi việc tế giỗ Khổng Tử. Đến đời Hán Nguyên đế đã phong cho Khổng Bá, cháu đời thứ 13 tước "Bao Thành hầu". Họ Khổng được phong tước Hầu cả thảy 35 lần kể từ thời nhà Hán.
    Đến đời Đường, hoàng đế Đường Huyền Tông đã phong tước "Văn Tuyên công" cho Khổng Chi, cháu đời thứ 35. Đến năm 1055, hoàng đế Tống Chân Tông cải phong thành tước "Diễn Thánh công" (衍聖公 - Yǎnshèng gōng) cho Khổng Thánh Hữu, cháu đời thứ 46. Tính tổng cộng, họ Khổng tiếp tục được gia phong tước Công 42 lần từ đời Nhà Đường tới thời Nhà Thanh.

    Dù trong lịch sử Trung Quốc luôn xảy ra những cuộc thay đổi triều đại, danh hiệu Diễn Thánh công luôn được trao cho các thế hệ con cháu của Khổng Tử. Người cuối cùng được phong tước hiệu này là Khổng Đức Thành (1919-2008), cháu đời thứ 77 của Khổng Tử. Mãi cho đến năm 1935, chính phủ Trung Hoa Dân quốc bãi bỏ tước vị này, nhưng vẫn chỉ định ông Khổng Đức Thành làm người trông coi việc cúng giỗ Khổng Tử. Trải qua hơn 2.000 năm với hàng chục lần chiến tranh loạn lạc hoặc thay đổi triều đại, hậu duệ của Khổng Tử vẫn tiếp tục gìn giữ việc tế tự ông tại Khổng Phủ.

    Trải qua nhiều thời đại, các thành viên họ Khổng thường có quan hệ hôn nhân với một số gia đình chính trị có ảnh hưởng ở Trung Quốc. Hoàng đế Càn Long đã cưới một người cháu gái của Khổng Hiến Bồi, cháu đời thứ 72 của Khổng Tử, khiến họ Ái Tân Giác La và họ Khổng có quan hệ với nhau. Một người cháu khác là Khổng Tường Hy, cháu đời thứ 75, từng giữ chức Viện trưởng Hành chính, kiêm Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ Tưởng Giới Thạch, lập gia đình với Tống Ái Linh, trở thành anh em cột chèo với cả 2 vị tổng thống của Trung Hoa Dân quốc là Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch.

    Dòng dõi chính của ông đã chạy từ quê hương Khúc Phụ tới Đài Loan trong thời Nội chiến Trung Quốc. Người trưởng tộc là Khổng Đức Thành, một giáo sư tại Đại học Quốc lập Đài Loan. Ông từng phục vụ cho chính phủ Trung Hoa Dân quốc với tư cách Chủ tịch Khảo thí viện. Ông cưới Tôn Kỳ Phương, chắt của một vị học giả, quan chức nhà Thanh và cũng là chủ tịch đầu tiên của Đại học Bắc Kinh Tôn Gia Nại, gia đình ông này đã lập ra tổ hợp kinh doanh đầu tiên ở Trung Quốc hiện đại ngày nay, gồm nhà máy bột mì lớn nhất Châu Á, Công ty Bột mì Fou Foong. Con trai trưởng của ông là Khổng Duy Ích, cháu đời thứ 78 của Khổng Tử đã qua đời vào năm 1989. Cháu nội của ông, Khổng Thụy Trường, sinh năm 1975, là cháu đời thứ 79. Năm 2008, Khổng Đức Thành qua đời ở tuổi 90, nhưng cũng đã kịp chứng kiến sự ra đời của người cháu đời thứ 80 của Khổng Tử, Khổng Hựu Nhân, được sinh hạ vào ngày 1 tháng 1 năm 2006 tại Đài Bắc. Hiện tại, ông Khổng Thụy Trường giữ chức vụ danh dự "Đại thành chí thánh tiên sư phụng tự quan" (大成至圣先师奉祀官) của chính phủ Đài Loan, chịu trách nhiệm tế tự cho Khổng Tử.

    Trước sự quan tâm lớn về dòng dõi của Khổng Tử, một dự án được tiến hành ở Trung Quốc để kiểm tra ADN của các thành viên gia đình đã được biết. Theo đó, cho phép các nhà khoa học xác định nhiễm sắc thể Y chung của các thế hệ con cháu theo dòng nam của Khổng Tử. Nếu thế hệ con cháu được tiếp nối liên tục, cha truyền cho con, những thành viên nam của gia đình sẽ có các nhiễm sắc thể Y giống nhau với đột biến nhỏ xảy ra theo thời gian. Tuy nhiên, năm 2009, những thành viên gia đình đã quyết định không tiến hành kiểm tra ADN. Bryan Sykes, giáo sư di truyền học của Đại học Oxford, giải thích quyết định này: "Dòng dõi gia đình Khổng Tử có một dấu ấn văn hóa quan trọng... Đây không chỉ là vấn đề về mặt khoa học." Cuộc kiểm tra ADN dự định bổ sung những thành viên mới vào dòng dõi gia đình Khổng Tử, mà những bản gia phả đã thiếu sót vì những biến động trong thế kỷ 20.

    Cũng cần lưu ý rằng những nhánh con cháu được biết hiện nay nhờ sử liệu được ghi chép. Sử dụng những mô hình toán học, khá dễ dàng để nhận ra rằng những người sống hiện tại có nhiều tổ tiên hơn là theo quan điểm thông thường, do đó có thể còn có nhiều người hơn nữa là con cháu của Khổng Tử.


    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét